Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng đòi hỏi phải nhận diện rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, từ đó vạch trần bản chất, kịp thời đấu tranh có hiệu quả. Một trong những thủ đoạn mà các thế lực phản động sử dụng là dựa vào hệ thống lý thuyết đa nguyên để đưa ra đòi “đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập”, nhằm mục tiêu tấn công vào hệ thống chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam. Bài viết phân tích một số vấn đề lý thuyết về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; làm rõ thực chất của những luận điệu chống phá đòi đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập ở Việt Nam; quan điểm, thái độ của Đảng và nhân dân ta nhằm góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
1. Mở đầu.
Hiện nay, các thế lực
thù địch đang ráo riết tấn công nền tảng tư tưởng của Đảng ta. “Đa nguyên chính
trị, đa đảng đối lập” là đòi hỏi, yêu cầu phi lý của các thế lực thù địch dưới
danh nghĩa cá nhân hoặc tổ chức, bằng nhiều phương thức khác nhau để yêu cầu
Đảng ta phải thực hiện sự thay đổi trong lĩnh vực chính trị, gồm: không duy trì
một hệ tư tưởng chính trị dẫn dắt mà phải có nhiều hệ tư tưởng chính trị cùng
tồn tại, dẫn dắt, định hướng xã hội; không duy trì một đảng lãnh đạo, cầm quyền
mà phải có nhiều đảng chính trị đối lập, thông qua tranh cử tự do để thay nhau
giành quyền lập chính phủ, lãnh đạo đất nước. Để thực hiện mục đích đó, các thế
lực thù địch tăng cường tuyên truyền, cổ xúy cho chế độ “đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập”, xây dựng “nền dân chủ” theo mô hình của các nước TBCN; đồng
thời chúng ra sức xuyên tạc, chống phá chế độ chính trị nhất nguyên do Đảng
Cộng sản Việt Nam cầm quyền và nền dân chủ XHCN ở nước ta. Để bảo vệ Đảng, giữ
vững định hướng XHCN, chúng ta cần nhận diện rõ vấn đề này để đấu tranh chống
lại những âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch.
2. Một số vấn đề lý
thuyết về đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
“Đa nguyên” theo nghĩa
đen là nhiều nguồn gốc và hiện tượng, thường được hiểu là quan điểm thừa nhận
nhiều hệ tư tưởng, nhiều đường lối của các giai tầng xã hội trong một thể chế
chính trị. Cơ sở lý luận cho việc thực hiện đa nguyên, đa đảng chính là chủ
nghĩa đa nguyên, một trường phái triết học tư sản do nhà triết học Đức
Chiristian Woiff đề xuất vào đầu thế kỷ XVIII. Đây là một học thuyết phi
mácxít. Các nhà triết học với lập trường đa nguyên đề cao sự đa dạng của sự vật
và cho rằng nó quan trọng hơn sự thống nhất của chúng, thậm chí phủ nhận tính
thống nhất của thế giới vật chất, coi thế giới là kết quả của sự kết hợp các
nguyên thể, các yếu tố và từ đó cường điệu, thổi phồng cái riêng. Christian
Wolff cho rằng, bản tính tự nhiên của con người là vươn tới sự hoàn thiện. Theo
đó, sự hoàn thiện của một sự việc nhìn chung nằm trong sự thống nhất của cái đa
dạng hoặc nhiều cái trong một tổng thể sự vật. Sự hoàn thiện có thể thông qua
sự xác định của tất cả những gì bao hàm trong nó và trong trạng thái tự do tự
nhiên, mỗi người làm theo ý chí của mình mà không bị lệ thuộc vào ý chí của
người khác.
Nhiều nhà nghiên cứu
cho rằng, sự ra đời của lý thuyết đa nguyên vào thế kỷ XVIII, thời kỳ mà các
dòng tư tưởng một mặt muốn thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo và thế lực phong
kiến, mặt khác phản ánh tính tiến bộ của giai cấp tư sản. Do đó, nó ít đề cập
đến những nội dung về thế giới quan mà chủ yếu tìm hiểu những vấn đề xã hội.
Nói cách khác, nó không thuần túy bàn đến những vấn đề của triết học mà chuyển
vào lĩnh vực chính trị. Đây là thời điểm mà giai cấp tư sản đang có vai trò với
tư cách là lực lượng tiến bộ trong xã hội, là giai cấp tiên phong trong cuộc
đấu tranh chống lại các thế lực phong kiến lạc hậu, bảo vệ quyền tự do và bình
đẳng của các nhóm xã hội, phát triển quyền tự do dân chủ tư sản.
Tuy nhiên, trong giai
đoạn sau của sự phát triển, đặc biệt từ khi CNTB tự do cạnh tranh chuyển sang
giai đoạn CNTB độc quyền (chủ nghĩa đế quốc), những mặt tích cực thời kỳ đầu
của lý thuyết đa nguyên, đa đảng đã bị biến chất. Bảo vệ cho quan điểm phải dựa
trên chế độ tư hữu, họ cho rằng xã hội được phân chia thành các cá thể, tầng
lớp, hội nhóm, tập đoàn, phân biệt bằng thu nhập và tài sản, tôn giáo, tín
ngưỡng, nghề nghiệp, đảng phái. Lý thuyết đa nguyên chủ trương xây dựng cơ chế
quản lý xã hội theo nguyên tắc đa đảng phái đối lập và các đảng phái đó hoạt
động dựa trên nguyên tắc hiệp thương.
Về bản chất, đa nguyên
chính trị là lý thuyết phản ánh đặc trưng trong hệ thống chính trị của một quốc
gia khi có nhiều con đường, nhiều mục tiêu, nhiều đảng phái, đại biểu cho những
đường lối, lợi ích khác nhau và được tự do hoạt động. Đa nguyên chính trị
thường gắn liền với thể chế chính trị đa đảng đối lập.
Theo lý thuyết của lập
trường đa nguyên chính trị, xã hội nào có đa nguyên chính trị thì tất yếu sẽ
gắn liền với đa đảng chính trị, có nhiều đảng đối lập tồn tại trong xã hội,
hoạt động cùng với đảng cầm quyền; họ cho rằng khi đã thực hiện đa nguyên chính
trị thì sẽ kéo theo sự tồn tại của đa ý thức hệ, đó là sự thống nhất trong đa
dạng; đa nguyên chính trị thể hiện sự năng động để hiện thực nền dân chủ và bảo
đảm thực hiện các vấn đề về nhân quyền trong xã hội; đa nguyên chính trị là
điều kiện và nó sẽ khai mở để xây dựng một nền dân chủ cho xã hội… Do đó, cần
“cải tiến nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” nhằm thực hiện nguyên tắc “chia để trị”
trong lòng xã hội ở các nước XHCN.
Thực chất, quan điểm
đa nguyên chính trị đã che đậy tính đối kháng trong mối quan hệ xã hội và phủ
nhận sự phân chia xã hội thành các giai cấp, do đó phủ nhận đấu tranh giai cấp.
Mặc dù tìm mọi hình thức để che đậy bản chất, song giai cấp tư sản không thể
phủ nhận được sự thực, đó là: mục đích cuối cùng, mục tiêu duy nhất của chế độ
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập trong xã hội TBCN thực chất là bảo đảm
quyền lực chính trị của giai cấp tư sản, bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc lột
bằng mọi giá.
Ở các nước tư bản,
thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nhưng về bản chất vẫn là: (i)
Các đảng chính trị dù tồn tại nhiều nhưng chỉ một hoặc hai đảng thay nhau cầm
quyền, các đảng này đều đại diện cho một bộ phận, thế lực của giới nhà giàu,
các tập đoàn tư bản (công nghiệp, quốc phòng, tài chính, bất động sản, v.v..)
của giai cấp tư sản, chứ không đại diện cho giai cấp công nhân, người lao động
để họ có cơ hội thắng cử và nắm quyền lực chính trị. Nói cách khác, dù nhiều
đảng chính trị thay nhau cầm quyền nhưng thực chất vẫn chỉ là đảng của giai cấp
tư sản; (ii) Đảng chính trị thắng cử có quyền lập nội các mới nhưng chính sách,
đường lối lãnh đạo không được đe dọa thể chế chính trị tư sản - lấy chế độ tư
hữu làm nền tảng với tư liệu sản xuất do thiểu số nhà tư bản của giai cấp tư
sản nắm quyền sở hữu. Do vậy, nền dân chủ trong chế độ TBCN mang bản chất của
giai cấp tư sản. Trong khi đó, địa vị chính trị của giai cấp công nhân nói
riêng, người lao động nói chung trong xã hội tư bản không thay đổi.
Theo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, chính trị phản ánh kinh tế, là sự biểu hiện tập trung của
kinh tế mà cốt lõi là chế độ sở hữu. Sự ra đời của nhà nước XHCN đánh dấu bước
ngoặt trong lịch sử phát triển của nhân loại. Giai cấp thiểu số không còn giữ
vị trí độc tôn thống trị đối với xã hội loài người vì lần đầu tiên trong lịch
sử, giai cấp lao động đã bước lên vũ đài chính trị. Sự kiện lịch sử này có ý
nghĩa đối với nhân dân lao động trên toàn thế giới và đe dọa lợi ích kinh tế
cũng như lợi ích chính trị của CNTB. Đây là mấu chốt dẫn tới sự đối đầu giữa
hai hệ thống nhà nước TBCN và XHCN và cũng là cuộc đối đầu giữa ý thức hệ tư
sản và ý thức hệ cộng sản. Từ đây, nó gắn liền với sự chống phá liên tục,
thường xuyên, không từ bỏ một thủ đoạn nào của CNTB đối với CNXH.
Nhà nước XHCN ra đời
trên cơ sở chế độ công hữu, đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động, do đó sẽ giải quyết được những mâu thuẫn xã hội phức tạp nảy sinh
từ các chế độ xã hội đã tồn tại trước đó. Về quyền lực, nhà nước XHCN đại diện
cho quyền lực của toàn thể nhân dân. Về tính giai cấp, nhà nước XHCN mang bản
chất của giai cấp công nhân, có sự thống nhất với các lợi ích cơ bản, phản ánh
ý chí, nguyện vọng của tất cả các giai tầng trong xã hội. Nhà nước XHCN mang
bản chất của giai cấp công nhân bởi giai cấp này mang sứ mệnh lịch sử của giai
cấp cách mạng, đại diện cho phương thức sản xuất mới và đại diện cho xu thế của
tiến bộ xã hội.
Những lý thuyết xuyên
tạc, chống phá, bằng chiêu bài yêu cầu thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa
đảng đối lập ở Việt Nam cho rằng, theo lý luận mácxít, chính trị phản ánh kinh
tế, phản ánh sở hữu nên thực hiện nhất nguyên chính trị chỉ phù hợp với nền
kinh tế của Việt Nam trước đây, khi chỉ có kinh tế nhà nước, sở hữu nhà nước
thì một đảng lãnh đạo là phù hợp. Nhưng từ khi đổi mới, Việt Nam thực hiện nền
kinh tế thị trường bao gồm nhiều thành phần kinh tế, đa dạng các hình thức sở
hữu thì phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới phù hợp với lý
luận mácxít về mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị.
Cần thấy rõ, theo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị phản ánh kinh tế nhưng chính trị
không phản ánh tất cả các phương diện kinh tế mà chỉ là biểu hiện tập trung của
kinh tế, tức là chính trị sẽ phản ánh quan hệ kinh tế cơ bản, cốt lõi nhất là
vấn đề về sở hữu. Ở Việt Nam hiện nay, mặc dù tồn tại nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, các yếu tố này tác động qua lại biện chứng nhưng sở
hữu toàn dân vẫn là loại hình chi phối các hình thức sở hữu khác. Do đó, thực
chất ở Việt Nam không có đa nguyên về kinh tế, vì vậy cũng không thể đa nguyên
về chính trị.
Luận điệu đòi đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập thường gắn với đòi hỏi về thực hiện dân chủ
kiểu phương Tây. Họ cho rằng, chỉ khi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng
đối lập thì mới có dân chủ. Họ cố tình lảng tránh vấn đề cơ bản: Dân chủ là
phạm trù lịch sử, xuất hiện khi nhà nước xuất hiện và mỗi nền dân chủ phải gắn
với một nhà nước nhất định, được pháp luật quy định về quyền công dân, tùy
thuộc vào sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội trong giai đoạn lịch sử tương
ứng.
Trong tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gôta, C.Mác viết: “Quyền không bao giờ có thể ở mức cao hơn chế độ
kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”.
Mỗi quốc gia có những đặc thù và trình độ phát triển kinh tế, chính trị, lịch
sử, văn hóa... khác nhau, do đó nền dân chủ của mỗi quốc gia sẽ khác nhau. Dân
chủ không phụ thuộc vào cơ chế một đảng cầm quyền hay đa đảng đối lập mà phụ
thuộc vào bản chất của đảng cầm quyền và đảng đó phục vụ cho lợi ích của giai
cấp nào, cũng như cách thức vận hành của bộ máy nhà nước theo quan điểm của
giai cấp đó. Thực hiện chế độ một đảng hay nhiều đảng phụ thuộc vào điều kiện
chính trị, lịch sử, xã hội, văn hóa, tôn giáo… của mỗi quốc gia. Lựa chọn thể
chế chính trị một đảng hay đa đảng là quyền tự quyết của mỗi dân tộc, không
chịu sự áp đặt của bất cứ thế lực nào. Dân chủ chỉ được bảo đảm trong điều kiện
đảng cầm quyền thực sự cách mạng, hoạt động vì lợi ích của nhân dân. Quan điểm
“chỉ có đa đảng đối lập thì mới có dân chủ” và “một đảng cầm quyền là không có
dân chủ” của các thế lực phản động về bản chất là nhằm tiến tới thiết lập cơ
chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập tại Việt Nam.
3. Những chiêu bài,
thủ đoạn đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam.
Luận điệu đòi đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập nằm trong âm mưu “diễn biến hòa bình”, do một
số người bất mãn chế độ, chống đối Đảng, Nhà nước câu kết với các thế lực thù
địch ở nước ngoài, các tổ chức phản động người Việt lưu vong thực hiện các
chiêu bài, thủ đoạn:
Đòi sửa đổi Hiến pháp,
xóa bỏ Điều 4 hiến định về Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà
nước và toàn xã hội nhằm mục đích xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng.
Phê phán Đảng giữ “độc
quyền lãnh đạo”, không đổi mới chính trị, không thực hiện đa nguyên chính trị
và cho rằng nếu không thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập thì không
có dân chủ. Chúng xuyên tạc bản chất khi cho rằng: “Độc tài, Đảng trị là cái
gốc sai chính của nhà cầm quyền Việt Nam hiện tại” và bao biện “Đảng chỉ nên
giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo toàn diện và
tuyệt đối”. Chúng thống kê, tập hợp những sai lầm, thiếu sót trong hoạt động
thực tiễn ở một số địa phương, đơn vị, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và quản
lý xã hội để đưa ra luận điệu về sự cần thiết phải “chấm dứt vai trò lịch sử
của Đảng”. Chúng ra sức khai thác, lợi dụng những khuyết điểm, vi phạm của một
bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, biến chất, tham nhũng để kích động xã hội
hòng tạo mâu thuẫn, gây chia rẽ trong Đảng, làm giảm uy tín và tầm ảnh hưởng
của Đảng, làm suy yếu sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân.
Chúng khuyến khích cải
tổ, cải cách, đổi mới triệt để, thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
nhằm phá hoại tư tưởng, thay đổi nhận thức, niềm tin của các tầng lớp nhân dân,
kể cả cán bộ, đảng viên vào tính tất yếu của sự ra đời và vai trò lãnh đạo cách
mạng, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng phủ nhận lợi ích chung, mục tiêu chung cao cả, tốt đẹp, nhân văn của
CNXH, CNCS.
Âm mưu của chúng là
lôi kéo các tầng lớp nhân dân, trước hết là thanh thiếu niên, đồng bào các dân
tộc thiểu số, kiều bào và các phần tử chống đối nghe, tin và đi theo con đường
chống lại mục tiêu, lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc Việt
Nam. Từng bước hình thành tư tưởng, quan điểm đối lập, phần tử đối lập để tạo
điều kiện, tiền đề cho việc ra đời và công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức
chính trị đối lập với Đảng. Trắng trợn hơn, chúng ra sức xây dựng các tổ chức
đảng đối lập phản động, như: “Đảng Dân chủ”, “Đảng Dân chủ xã hội”, “Đảng Dân
chủ tự do Thiên Chúa giáo”, “Đảng Dân chủ tự do Phật giáo”... hướng tới mục
tiêu thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam và thủ tiêu vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chúng muốn hướng lái
con người và xã hội vào chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, ích kỷ, hẹp hòi, cuối cùng
là hướng lái Việt Nam đi theo con đường TBCN; tạo sự mất ổn định về chính trị -
xã hội để dễ bề chi phối các lực lượng, phe nhóm trong nước, làm cho kinh tế
Việt Nam phát triển trong sự phụ thuộc vào bên ngoài để các thế lực nước ngoài
có cơ hội thao túng chính sách phát triển của Việt Nam và làm suy yếu sức mạnh
của dân tộc Việt Nam.
4. Quan điểm, thái độ
của Đảng và nhân dân ta trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trước các chiêu
bài, luận điệu tuyên truyền đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Những luận điệu, quan
điểm sai trái, thù địch rất đa dạng, tinh vi. Các luận điệu xuyên tạc thường
hướng đến âm mưu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ
chế độ XHCN mà nhân dân ta đang xây dựng. Chúng ta cần khẳng định dứt khoát
rằng các luận điệu tuyên truyền đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở Việt Nam
là hoàn toàn sai trái, phản động, phản khoa học, phi lịch sử. Đấu tranh bác bỏ
luận điệu xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ phải được thực hiện
thường xuyên, kiên quyết, kiên trì; vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ
thường xuyên, cơ bản, lâu dài.
Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội
là tất yếu của lịch sử. Từ khi đất nước bị thực dân Pháp xâm lược (năm 1858),
nhiều phong trào yêu nước, đấu tranh giải phóng dân tộc theo các khuynh hướng,
lập trường, quan điểm khác nhau đã xuất hiện, tuy nhiên các phong trào ấy đều
không thành công bởi vì không phù hợp với bối cảnh lịch sử của dân tộc và xu
thế phát triển của thời đại. Xuất phát từ thực tiễn cách mạng của đất nước,
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến chủ nghĩa Mác - Lênin, truyền bá lý luận chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Nhờ đó, phong trào công nhân và phong trào yêu
nước có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dẫn tới sự hình thành các tổ chức cộng
sản.
Sự xuất hiện của ba tổ
chức cộng sản (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng
sản Liên đoàn), một mặt giúp thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển, nhưng
mặt khác cũng đặt ra yêu cầu bức thiết, đó là cần phải hợp nhất ba tổ chức ở ba
miền thành một tổ chức đảng thống nhất để đáp ứng nhiệm vụ và yêu cầu của cách
mạng Việt Nam. Chính vì vậy, sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930
dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc là một dấu mốc lịch sử quan trọng
mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ
nghĩa Mác - Lênin, mở ra một thời đại mới cho chặng đường phát triển tiếp theo
của đất nước.
Thực tiễn lịch sử đã
chứng minh, sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước là
sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, thể hiện ý chí và nguyện vọng của toàn thể
nhân dân. Trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng đại diện cho “trí tuệ, danh dự và lương
tâm của thời đại”.
Khẳng định vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 90 năm ngày
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 3-2-2020), Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào
khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín
và khả năng lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp
cách mạng của dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”. Đảng Cộng sản
Việt Nam chưa bao giờ và không bao giờ tự cho mình quyền lãnh đạo Nhà nước và
xã hội mà đó là trọng trách, nhiệm vụ cao cả mà nhân dân Việt Nam tin tưởng
giao phó, là sự lựa chọn của lịch sử. Từ khi thành lập đến nay, Đảng luôn là
đội tiên phong, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân, trung thành với
lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam.
Nhìn lại lịch sử, theo
đề xuất của Chủ tịch Hồ Chí Minh và được sự nhất trí của Đảng, chúng ta đã
thành lập thêm các đảng chính trị mới. Đảng Dân chủ Việt Nam (thành lập ngày
30-6-1944) và Đảng Xã hội Việt Nam (thành lập ngày 22-7-1946) được ra đời với
mục đích tập hợp lực lượng toàn thể các giai tầng yêu nước tham gia cách mạng,
bao gồm những trí thức, thương gia, kỹ sư, viên chức yêu nước của chế độ cũ.
Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược nhằm mở rộng thành phần của Mặt trận dân
tộc thống nhất, huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Trong quá
trình thành lập và hoạt động, Đảng Dân chủ Việt Nam và Đảng Xã hội Việt Nam là
những tổ chức yêu nước chân chính, thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất,
thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng Dân chủ và Đảng Xã
hội chưa bao giờ là lực lượng đối lập, mà trái lại, luôn là đồng chí chân thành
của Đảng Cộng sản Việt Nam, tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Tuy nhiên, hai đảng này không đủ tầm ảnh hưởng chính trị để nhân dân giao
sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, căn
cứ vào lý do và mục đích tồn tại không còn phù hợp, không phát triển thêm được
đảng viên mới, vì vậy hai đảng này đã tự giải tán vào năm 1988.
Năm 1946, để phù hợp
với điều kiện thực tiễn của cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tuyên bố tự
giải tán và mở rộng Chính phủ dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu, với sự
tham gia của nhiều đảng phái đối lập, như: Việt Quốc (Việt Nam Quốc dân Đảng);
Việt Cách (Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội)… Nhưng trong dòng chảy cách mạng,
những tổ chức, đảng phái này không có chỗ đứng trong lòng dân tộc, không thể
hiện là tổ chức chính trị đại diện cho ý chí, lợi ích của giai tầng nào trong
xã hội. Chính vì thế, khi lực lượng quân đội Trung Hoa Dân quốc rút về nước, họ
cũng rời bỏ đất nước.
Sau Hiệp định Giơnevơ
năm 1954, một lần nữa, lịch sử và nhân dân lại lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam
là tổ chức chính trị có sứ mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đất nước tạm thời
chia làm hai miền, ở miền Nam, đế quốc Mỹ thay chân Pháp đặt ách cai trị thực
dân mới, lập nên chính phủ ngụy quyền tay sai, nhiều đảng phái chính trị tư sản
đã thành lập. Mục đích chính trị của những đảng phái này là phá hoại tổng tuyển
cử tự do, phá hoại sự nghiệp thống nhất nước nhà, đi ngược lại với lợi ích của
toàn dân tộc nên nhân dân ta đã đoàn kết đấu tranh để loại bỏ những đảng phái
chính trị đó.
Từ năm 1975 đến nay,
chế độ chính trị nhất nguyên với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
không ngừng được củng cố và phát triển toàn diện, khẳng định tính tất yếu khách
quan trong sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, xứng đáng với vị trí
lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, “nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân
phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã
ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa”.
Thực tiễn cách mạng đã
cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của lịch
sử, thể hiện ý nguyện của toàn thể nhân dân, các tầng lớp nhân dân mong muốn
Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chấp nhận chế độ đa đảng trong chính
trị. Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo dân tộc giành thắng lợi
trong các cuộc kháng chiến chống lại thực dân, đế quốc xâm lược, giải phóng dân
tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa đất
nước đi lên CNXH.
Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 17-12-1998 của Bộ Chính trị về Chiến lược an ninh quốc gia khẳng định: Bảo
vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; không chấp nhận đa nguyên chính
trị; không để hình thành tổ chức chính trị đối lập, đối trọng với Đảng và Nhà
nước; Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 14-10-2006 của Bộ Chính trị về Tăng cường công
tác lãnh đạo bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới nhấn mạnh: Trong bất
cứ hoàn cảnh nào cũng phải giữ vững ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ vững
chắc an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội. Không để xảy ra khủng
bố, phá hoại, bạo loạn chính trị, biểu tình, gây rối an ninh, trật tự; kiên
quyết không để hình thành các tổ chức chính trị đối lập trong nội địa; không để
kẻ xấu lợi dụng tự do báo chí để vu khống, bôi đen Đảng và Nhà nước ta. Điều
này chứng tỏ, quan điểm nhất quán của Đảng và nhân dân ta là không chấp nhận đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam là phù hợp với thực tiễn xã hội và hoàn toàn hợp hiến và
hợp pháp. Các bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng
định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo
Nhà nước và xã hội Việt Nam”. Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của
hệ thống ấy”. Những căn cứ trên chứng tỏ vai trò lãnh đạo của Đảng được xây
dựng trên cơ sở pháp lý đồng bộ và có sự đồng thuận của các tổ chức liên quan,
không chỉ có Cương lĩnh, Điều lệ Đảng “đơn phương” quy định. Đây là yếu tố quan
trọng để khẳng định tính chính danh đầy đủ được quy định tại Hiến pháp và Điều
lệ Đảng về vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thể chế nhất nguyên
chính trị hoàn toàn không đồng nghĩa với việc “mất dân chủ”, “triệt tiêu dân
chủ” như luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc. Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam, mọi đường lối, chủ trương của Đảng đều có sự tham gia đóng
góp ý kiến của nhân dân theo cơ chế phát huy dân chủ rộng rãi. Đường lối, chủ
trương của Đảng được xây dựng trên cơ sở tiếp thu, lắng nghe ý kiến của nhân
dân thông qua các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân.
Năm 2010, khi trả lời
câu hỏi của phóng viên báo Express Ấn Độ về việc liệu đã đến lúc chín muồi để
Việt Nam có một hệ thống đa đảng hay chưa, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng
đã khẳng định: “Không phải có nhiều đảng thì dân chủ hơn, ít đảng thì ít dân
chủ hơn, mỗi nước có hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau, điều quan
trọng là xã hội có phát triển không, nhân dân có được hưởng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc không và đất nước có ổn định để ngày càng phát triển đi lên không? Đó
là tiêu chí quan trọng nhất. Và cũng không nhất thiết cứ kinh tế thị trường thì
phải đa đảng và ở Việt Nam chưa thấy sự cần thiết khách quan phải có chế độ đa
đảng”.
Những năm qua, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và
uy tín quốc tế như ngày nay. Đây là niềm tự hào, là động lực, nguồn lực quan
trọng, là niềm tin để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta vượt qua mọi khó
khăn, thách thức, tiếp tục vững bước trên con đường đổi mới toàn diện, đồng bộ;
phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Những thành tựu này tiếp tục chứng minh
chặng đường từ khi có Đảng lãnh đạo là chặng đường vinh quang trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc và xây dựng cơ đồ đất nước. Đảng
đã khẳng định vai trò lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc và sứ mệnh lịch sử
lãnh đạo cách mạng XHCN, xây dựng CNXH, mang lại cho nhân dân cuộc sống ấm no,
tự do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng và văn minh. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn
nghiêm khắc và có trách nhiệm cao với sứ mệnh lãnh đạo của mình, gắn vận mệnh
của mình với vận mệnh của dân tộc. Đảng không độc đoán, bảo thủ, chuyên quyền,
không xa rời những nguyên lý và nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động.
Trong quá trình lãnh đạo, Đảng luôn thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tự
phê bình và phê bình, quan hệ gắn bó máu thịt với nhân dân.
Quan điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về thực hiện nhất nguyên chính trị, một đảng lãnh đạo là phù
hợp với nguyện vọng của nhân dân và thực tiễn của đất nước. Vì sự ổn định và
phát triển của đất nước, Việt Nam không thực hiện chế độ đa nguyên chính trị,
đa đảng đối lập. Chúng ta phải luôn kiên định với nền tảng tư tưởng của Đảng,
“Trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào cũng phải luôn kiên định với chủ
nghĩa Mác - Lênin, coi đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, là kim chỉ nam cho mọi
hành động”; “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân
ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh”.
Trong công cuộc xây
dựng đất nước hiện nay, để mô hình một đảng lãnh đạo phát huy hết giá trị, Đảng
phải tự mình thường xuyên đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, phải “đặc
biệt chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then
chốt, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa”, để xây dựng
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh; để Đảng ta mãi mãi trường tồn, giữ vững vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với đất nước, dân tộc./.
St
Đăng nhận xét