Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, tôn giáo. Song dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Mỗi cá nhân hoàn toàn tự do lựa chọn theo hoặc không theo một tín ngưỡng, tôn giáo nào. Người có tín ngưỡng, tín đồ các tôn giáo được tự do bày tỏ đức tin tại gia đình, cơ sở thờ tự hoặc điểm nhóm đăng ký với chính quyền. Các tôn giáo chung sống hài hòa, đoàn kết, gắn bó đồng hành với dân tộc, không có xung đột sắc tộc, xung đột tôn giáo. Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, các tổ chức tôn giáo luôn đồng hành và tham gia tích cực vào đời sống chính trị - xã hội đất nước. Ngay từ Hiến pháp 1946, 1959, 1980, đến Hiến pháp 1992 (được sửa đổi vào năm 2001), 2013 đều quy định về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân.
Điều 24 (Hiến pháp
2013) quy định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà
nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được
xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi
phạm pháp luật”. Thể chế hóa Hiến pháp 2013, năm 2016 Quốc hội thông qua Luật
Tín ngưỡng tôn giáo. So với các quy định của pháp luật trước đây, Luật Tín
ngưỡng tôn giáo 2016 có nhiều điểm mới, bảo đảm tốt hơn quyền của công dân và
của mọi người trên lĩnh vực tôn giáo. Chẳng hạn: Quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo được mở rộng thành “quyền của mọi người” chứ không riêng của công dân Việt
Nam. Nói một cách cụ thể, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người nước ngoài
ở Việt Nam cũng được Nhà nước Việt Nam bảo hộ. Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016
còn bảo đảm quyền tín ngưỡng, tôn giáo đối với cả những người đã bị tước đi một
phần quyền công dân: “Người bị tạm giữ, người bị tạm giam, người đang chấp hành
hình phạt tù; người đang chấp hành biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở
giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc được sử dụng kinh sách, bày tỏ
niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo”.
Cũng như pháp luật về
quyền con người, người hưởng thụ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở tất cả quốc
gia, Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016 quy định người hưởng thụ quyền có nghĩa vụ
nhất định. Điều 5 (Luật Tín ngưỡng tôn giáo 2016) quy định: “Các hành vi bị
nghiêm cấm: (1). Phân biệt đối xử, kỳ thị vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; (2).
Ép buộc, mua chuộc hoặc cản trở người khác theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn
giáo; (3). Xúc phạm tín ngưỡng, tôn giáo; (4). Hoạt động tín ngưỡng, hoạt động
tôn giáo: a) Xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, môi trường; b) Xâm hại đạo đức xã hội; xâm phạm thân thể, sức khỏe,
tính mạng, tài sản; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người khác; c) Cản trở việc
thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; d) Chia rẽ dân tộc; chia rẽ tôn giáo;
chia rẽ người theo tín ngưỡng, tôn giáo với người không theo tín ngưỡng, tôn
giáo, giữa những người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. (5). Lợi dụng
hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo để trục lợi”. Những quy định này hoàn
toàn tương thích với luật quốc tế về quyền con người. Điều 18, Công ước quốc tế
về các quyền Dân sự, Chính trị năm 1966 quy định: “(1). Mọi người đều có quyền
tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng và tôn giáo… Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hoặc
tín ngưỡng chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần
thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội, hoặc
để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác”.
Sự đổi mới tư duy về
tôn giáo của Đảng tiếp tục được khẳng định trong Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày
12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX Về công tác tôn giáo, coi
tôn giáo không chỉ tồn tại lâu dài mà sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc, đặc
biệt là đồng hành với chế độ xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta
đang xây dựng. Đặc biệt, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng (2021) đã xác định một
trong những nhiệm vụ trọng tâm để đưa đất nước bước vào giai đoạn phát triển
mới là: “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”. Vì vậy, đến nay, trên cả
nước có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước công nhận và cấp đăng ký
hoạt động, với trên 26,5 triệu tín đồ, chiếm 27% dân số cả nước, hơn 54 nghìn
chức sắc, trên 135 nghìn chức việc và gần 30 nghìn cơ sở thờ tự. Các tôn giáo
có đông tín đồ nhất là Phật giáo khoảng trên 14 triệu tín đồ, Công giáo khoảng
7 triệu tín đồ, Phật giáo Hòa Hảo khoảng 1,5 triệu tín đồ, Tin lành khoảng 1,21
triệu tín đồ; Cao Đài khoảng trên 1,1 triệu tín đồ. Ngoài ra, ở Việt Nam còn có
các tôn giáo khác như: Hồi giáo, Tịnh độ Cư sĩ Phật hội, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Bà
La Môn, Bửu Sơn Kỳ Hương, Minh Sư đạo, Minh Lý đạo... Cùng với đó Đảng, Nhà
nước Việt Nam luôn tạo điều kiện cho các tổ chức tôn giáo được thành lập cơ sở
đào tạo tôn giáo, mở lớp bồi dưỡng về tôn giáo. Cả nước hiện có 62 cơ sở đào
tạo tôn giáo tại 36 tỉnh, thành phố. Một số cơ sở đào tạo của tôn giáo được
phép đào tạo trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Hằng năm, có hàng trăm
lượt chức sắc, nhà tu hành, tín đồ của các tôn giáo ở Việt Nam xuất cảnh tham
dự các hoạt động tôn giáo, khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài và hàng trăm
lượt cá nhân tôn giáo nước ngoài nhập cảnh vào Việt Nam hoạt động tôn giáo. Đặc
biệt, có không ít chức sắc, tín đồ tôn giáo là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội
đồng nhân dân các cấp, có nhiều đóng góp quan trọng trong hệ thống chính trị,
xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân. Cụ thể, có 5 chức sắc trúng cử đại
biểu Quốc hội khóa XV; 88 chức sắc, chức việc và 35 tín đồ các tôn giáo trúng
cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; 225 chức sắc, chức việc, nhà tu hành và
246 tín đồ trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp huyện; 646 chức sắc, chức
việc, nhà tu hành và trên 5.000 tín đồ trúng cử đại biểu Hội đồng nhân dân cấp
xã nhiệm kỳ 2021 - 2026. Tuy nhiên, bất chấp thực tế đó, các đối tượng chống
phá, thù địch, thiếu thiện chí ở trong nước và ngoài nước vẫn tiếp tục lợi dụng
vấn đề quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước, chia rẽ,
phá hoại khối đoàn kết dân tộc, tôn giáo. Ở trong nước, các đối tượng chống phá
thường xuyên lợi dụng vấn đề tôn giáo, những sơ hở thiếu sót của các tổ chức,
cá nhân trong quá trình thực hiện chính sách để thông tin sai lệch, xuyên tạc
về tình hình bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; kích động, khai thác
triệt để những chức sắc có tư tưởng cực đoan.
Từ một số vụ việc nổi
cộm liên quan đến lĩnh vực tôn giáo, các thế lực thù địch, phản động đã lồng
ghép yếu tố chính trị, kích động người dân bất hợp tác với chính quyền, tham
gia biểu tình, gây ra điểm nóng tôn giáo, vu cáo Nhà nước ta đàn áp tôn giáo,
ngăn cấm xây sửa cơ sở thờ tự, cản trở hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo của các
chức sắc, chức việc, nhà tu hành. Ở nước ngoài, một số hội nhóm, cá nhân người
Việt lưu vong thông qua các trang mạng thường xuyên đăng tin, bài vu cáo Việt
Nam vi phạm nhân quyền, đàn áp tự do tôn giáo; kích động nhân dân mà trước hết
là tín đồ tôn giáo đấu tranh “đòi tự do tôn giáo”, “tự do nhân quyền”; viết thư
ngỏ kêu gọi các tổ chức chính trị, cá nhân trong và ngoài nước lên tiếng can
thiệp. Thực tế này đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người dân cần tỉnh táo
nhận diện, kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc tự do tín
ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, âm mưu gây bất
ổn xã hội, chống phá chế độ./.
St
Đăng nhận xét