Thực ra khi đã phải dùng biện pháp chiến tranh thì khó phân biệt lớn nhỏ, bởi chiến tranh nào cũng gây ra nhiều tổn thất người và của, phá vỡ mối quan hệ quốc gia, làm đảo lộn mọi quá trình phát triển hòa bình của dân tộc. Thời gian tiến hành có thể chỉ chớp nhoáng, đối tượng, mục tiêu tác chiến có khi không phải là đội quân nhà nghề của đế quốc lớn, nhưng không thể coi là nhỏ khi chiến tranh ấy giải quyết một trong những vấn đề có tính đột biến và quan trọng bậc nhất là thảm họa diệt chủng ở Campuchia.
Thảm
họa diệt chủng ở Campuchia xuất hiện sau năm 1975, là hiện tượng chưa từng có
trong khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. So sánh trước và sau đó sẽ thấy: Thảm
họa diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã trong 4 năm (1941-1945) giết hại
khoảng 5 triệu người Do Thái trên tổng số hơn 7 triệu người (chiếm 60-75% dân
cư Do Thái ở châu Âu); thảm họa diệt chủng của chính quyền người Hutu ở Rwanda
trong khoảng 100 ngày năm 1994 giết hại trên 800.000 người Tutsi (chiếm 70% dân
số Tutsi); Pol Pot-Ieng Sary trong thời gian cầm quyền 3 năm 8 tháng 20 ngày
(1975-1979), giết hại hơn 2 triệu người dân Campuchia (tương đương 25% dân số
đất nước).
Sự
dã man tàn bạo của các đồ tể Angkar do Pol Pot-Ieng Sary lập ra không thua kém
Gestapo của Đức Quốc xã và đội quân hung bạo người Hutu ở Rwanda. Chúng đều
giết người không chỉ thông dụng bằng cách bỏ đói, khát, bắt lao động kiệt sức,
hoặc xử bắn hàng loạt, dùng chất nổ, súng máy, hơi ngạt, mà còn có cách dã man
như thời Trung cổ: Dùng cuốc, mai, xẻng, dao rựa, dùi cui đánh đến chết. Ở
Campuchia, chúng tàn sát trong các trại giam, nhà tù, trường học, nhà chùa,
giống như tàn sát ngay tại các giáo đường, các điểm dừng giao thông, chợ, tại
các gia đình ở Rwanda, hay Đức Quốc xã sát nhân ở phòng thí nghiệm, phòng tập
bắn, phòng áp lực, xe chứa, phòng tắm hơi...
Cả
đất nước Campuchia từ sau ngày 17/4/1975 đến trước ngày 7/1/1979 chìm trong
loạn lạc đẫm máu, khi chính quyền do Pol Pot-Ieng Sary cầm đầu, xóa bỏ tận gốc
mọi cơ sở xã hội khi xây dựng “nhà nước mới” không chợ, không tiền, không trường
học, không đô thị, không trí thức, không tôn giáo - một xã hội nông nghiệp
không tưởng với mô hình nhà nước kỳ dị cưỡng bức nhân dân từ đô thị về nông
thôn, dồn dân vào sâu trong nội địa… Quyền lực tối cao của “Campuchia dân chủ”
tập trung vào năm “nhân vật”: Pol Pot, Noun Chea, Ieng Sary, Khieu Samphan, Ta
Mok. Chúng đẩy dân tộc Campuchia vào thảm họa diệt chủng tàn khốc; mở nhiều đợt
thanh trừng tàn bạo những thành phần chống đối, kể cả trong quân đội; gây xáo
trộn và mâu thuẫn nội bộ gay gắt. Hàng chục vạn người Campuchia, trong đó có
nhiều cán bộ, đảng viên phải tìm cách chạy trốn sang Việt Nam.
Không
chỉ mất nhân tính khi thực hiện diệt chủng chính đồng loại mình, tập đoàn Pol
Pot-Ieng Sary còn xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam, gây ra nhiều tội ác
theo lối diệt chủng đối với nhân dân Việt Nam. Chúng khiêu khích và nhiều lần
gây xung đột quân sự trên các vùng biên giới Việt Nam, tiến tới việc phát động
cuộc chiến tranh đẫm máu sang toàn tuyến biên giới Tây Nam của Việt Nam.
Việt
Nam chưa kịp khắc phụ hậu quả nặng nề của chiến tranh thực dân mới, lại phải
chịu thiệt hại rất lớn từ thảm họa diệt chủng và chính sách gây chiến của tập
đoàn Pol Pot-Ieng Sary. Quân và dân Việt Nam thực hiện quyền tự vệ chính đáng
của mình, chiến đấu chống xâm lược, bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng, đồng thời đáp
lời kêu gọi khẩn thiết của Mặt trận đoàn kết cứu nước Campuchia và nhân dân
Campuchia anh em, cứu giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng.
Song
cuộc chiến chỉ thực sự diễn ra sau nhiều nỗ lực ngoại giao không thành của
chính phủ Việt Nam và sự kiềm chế đến mức cao nhất của quân dân địa phương các
tỉnh biên giới Tây Nam. Đêm 30/4/1977 quân Pol Pot đồng loạt tấn công Việt Nam
trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang (14 xã); từ tháng 8/1977, chúng tấn
công khu vực biên giới các tỉnh Long An, Đồng Tháp; tháng 9/1977 chúng tấn công
tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh (3 huyện)… Chúng đòi đất ở tất cả những nơi có
cây thốt nốt và vu cáo Việt Nam muốn xoá đất nước Campuchia để lập liên bang;
chúng ra “Sách đen” kích động “hận thù dân tộc”, bôi nhọ sự thật lịch sử và
truyền thống láng giềng tốt đẹp Việt Nam-Campuchia; chúng gây ra nhiều cuộc
thảm sát dã man theo lối diệt chủng trên nhiều địa phương hai bên biên giới
(thảm sát Ba Chúc ở An Giang từ ngày 18/4 đến 30/4/1978 giết hại 3.157 người).
Chúng nhận viện trợ quân sự của nước lớn để xây dựng lực lượng quân đội có bộ
binh, pháo binh, thiết giáp mạnh hòng đánh bại Việt Nam…
Quân
dân Việt Nam thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc,
giúp đỡ và từng bước phối hợp với lực lượng bạn trong “Lực lượng vũ trang cách
mạng đoàn kết cứu nước Campuchia” (thành lập ngày 12/5/1978) và Mặt trận Đoàn
kết Dân tộc cứu nước Campuchia (ra đời ngày 2/12/1978). Từ ngày 22/12/1978 đến
ngày 7/1/1979, Quân đội nhân dân Việt Nam tiến hành cuộc tổng công kích giải
phóng Campuchia: tấn công chớp nhoáng và đánh bất ngờ vào thế trận tấn
công-phòng thủ của địch, đẩy lui toàn bộ các cánh quân Pol Pot xâm lấn về bên
kia biên giới, giải phóng toàn bộ các địa phương biên giới Tây Nam bị xâm
chiếm; đồng thời quân đội nhân dân Việt Nam cùng lực lượng cách mạng Campuchia
tiến công vào các sào huyệt địch, giải phóng thủ đô Phnom Penh, giải phóng hàng
triệu dân Campuchia; đập tan bộ máy thống trị của chế độ “Campuchia Dân chủ” từ
Trung ương đến cơ sở.
Việt
Nam hoàn thành nhiệm vụ chiến tranh bảo vệ Tổ quốc: Giữ vững biên cương và chủ
quyền quốc gia lãnh thổ, bảo vệ vững chắc đất đai và cuộc sống hòa bình cho
nhân dân vùng biên giới Tây Nam, lập lại sự ổn định và trật tự vùng biên giới;
đồng thời cũng cứu thoát nhân dân Campuchia khỏi thảm họa diệt chủng, giúp bạn
gây dựng lại lực lượng cách mạng, khép lại trang sử đen tối, đau thương của dân
tộc Campuchia, mở ra quá trình giúp bạn làm lại cuộc cách mạng, thực hiện công
cuộc hồi sinh dân tộc và phát triển đất nước Campuchia.
Chiến
tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam năm 1979 là 1 trong 23 cuộc chiến lớn
trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, chính nghĩa và tất thắng.
Bởi đó vẫn là chiến tranh nhân dân với nghệ thuật quân sự truyền thống theo lối
đánh dựa vào thế núi sông bờ cõi để làm chủ chiến trường, tiêu diệt sinh lực
địch, giữ gìn từng tấc đất giang sơn Tổ quốc cả đất liền và biển đảo.
Như
Nguyễn Trãi đã viết trong Bình Ngô đại cáo: “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân -
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”. Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây
Nam vẫn toàn dân đánh giặc như thời Trần, vẫn toàn dân toàn diện, lấy nòng cốt
là lực lượng vũ trang 3 thứ quân như 30 năm kháng chiến trường kỳ. Đạo lý Việt
Nam trong tất cả các cuộc chiến tranh giữ nước, bảo vệ nền độc lập dân tộc vẫn
thế: Vì hòa bình, vì con người, nhân đạo và nhân văn, hòa hiếu và thủy chung,
sáng rõ bạn-thù, tương thân-tương ái. Và lần này “Đất nước của ngàn chiến công
vẫn sục sôi khí thế hào hùng”, cuộc chiến bảo vệ Tổ quốc ở hai đầu biên giới
dạo lên khúc ca “Vì một lẽ sống cao đẹp cho mọi người: Độc lập, Tự do!”.
Đăng nhận xét