Trong những năm qua, với chiêu bài “bất bạo động”, tổ chức khủng bố Việt tân đã tiến hành rất nhiều thủ đoạn đen tối nhằm thực hiện mưu đồ phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam.
Gần đây, bộ phim tài liệu điều tra “Khủng bố ở Tiểu Sài Gòn” (Terror in Little Saigon) được chiếu trên truyền hình Frontline và bài phóng sự về bộ phim của nhà báo A.C. Thompson (A.C.Thôm-xơn) đăng trên propublica.org ngày 3-11, đã cung cấp thêm cứ liệu vạch rõ bản chất của cái gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” - tên gọi trước đây của tổ chức khủng bố Việt tân. Lược dịch gồm ba kỳ từ phóng sự của A.C Thompson giúp bạn đọc nhận diện tội ác của tổ chức này ngay trên đất Mỹ. Điều cần lưu ý là đến nay, cái chết oan khuất của các nạn nhân vẫn chưa được làm sáng tỏ.
Trong số các nhà báo gốc Việt bị ám sát trên đất Mỹ, Dương Trọng Lâm - người đã xuất bản ấn phẩm bằng tiếng Việt có tên Cái đình làng, là người đầu tiên. Một buổi sáng vừa bước ra khỏi căn hộ của mình ở San Francisco (Xan Phran-xi-xcô), một tay súng đã sát hại ông bằng một viên đạn xuyên động mạch phổi, ngay phía trên trái tim. Với Phạm Văn Tập thì cái chết đến chậm hơn. Khi ông đang ngủ trong văn phòng nhỏ tại Garden Grove (Ga-đơn Grô-vơ), có kẻ nào đó đã phóng hỏa tòa nhà. Người ta nghe thấy tiếng ông la hét trước khi bị chết ngạt vì khói. Tại Houston (Hau-xtơn), sát thủ truy đuổi Nguyễn Đạm Phong khi còn mặc bộ đồ ngủ và họ bắn ông bảy phát bằng một khẩu súng lục cỡ nòng 45. Vụ sát hại đánh dấu sự chấm dứt của tờ báo Tự do do Nguyễn Đạm Phong xuất bản, phát hành hai số mỗi tháng.
Từ năm 1981 đến năm 1990, có năm nhà báo Mỹ gốc Việt thiệt mạng. Điểm chung của họ là làm việc tại các ấn phẩm nhỏ phục vụ người Việt Nam tị nạn tại Mỹ sau năm 1975. Các điều tra viên Cục điều tra liên bang Mỹ FBI kết luận, việc giết hại các nhà báo cùng với những vụ đánh bom, hành hung đều tuân theo lệnh của “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” (sau đây gọi tắt là “mặt trận”), một tổ chức do các cựu sĩ quan “quân đội Việt Nam cộng hòa” điều hành. Theo điều tra viên, “mặt trận” này đe dọa thủ tiêu những người thách thức nó, hoặc đôi khi chỉ đơn giản là có cảm tình với những người cộng sản chiến thắng tại Việt Nam. Nhưng FBI đã không thực hiện bất cứ vụ bắt giữ nào đối với những kẻ giết người. Tất cả chính thức khép lại từ hai thập niên trước. Và từ lâu, gia đình các nhà báo Mỹ gốc Việt bị sát hại đã từ bỏ hy vọng công lý được thực thi. Họ thất vọng vì đã mong đợi nhiều từ lời hứa sẽ tìm kiếm sự thật của chính phủ.
Đầu năm 2014, ProPublica và Frontline mở lại cuộc điều tra, và đã có được hàng nghìn trang tài liệu của FBI mới giải mật cũng như điện tín từ cơ quan Tình báo trung ương Mỹ CIA, hồ sơ nhập cư. Chúng tôi phát hiện một số nhân chứng không được FBI hay chính quyền địa phương phỏng vấn, trong đó có các cựu thành viên “mặt trận”. Họ nói với chúng tôi rằng tổ chức này có một đội sát thủ bí mật ở Mỹ. Các nhân viên FBI đã theo đuổi giả thiết này trong nhiều năm nhưng chưa bao giờ có bằng chứng thuyết phục. Tại Mỹ, “mặt trận” công khai thu tiền để phát động lại cuộc chiến tranh Việt Nam, thậm chí tiến hành ba cuộc xâm nhập từ biên giới Thái-lan và Lào nhưng không thành công. Báo cáo của chúng tôi cho thấy các quan chức ở Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng, CIA, FBI biết về hoạt động quân sự của “mặt trận” trong khu vực Đông - Nam Á; nhưng chính quyền chưa từng hành động để thực thi Đạo luật trung lập (Neutrality Act) về ngăn cản chính phủ và công dân của đất nước nỗ lực lật đổ một chính phủ nước ngoài…
Ở Pearland (Pia-len) có một nghĩa trang được bao bọc bởi những cây thông, cây sồi. Phía sau nghĩa trang, gần một dòng nước nhiều bùn là ngôi mộ của Nguyễn Đạm Phong. Cỏ mọc len lỏi trên tấm biển nhỏ hình chữ nhật ghi tên của người đã khuất. Trong chiếc bình kim loại, một bông hồng duy nhất đã khô. Nhưng các dòng chữ khắc vào đá cẩm thạch từ 33 năm trước vẫn đọc được: “Bị giết khi theo đuổi chân lý và công lý thông qua báo chí”. Với ProPublica và Frontline, bộ phim tài liệu truyền hình Khủng bố ở Tiểu Sài Gòn sẽ kể câu chuyện về một thế lực đã đe dọa và thực hiện giết người mà không có bất cứ kẻ nào bị trừng trị…
Ông ta là Hoàng Cơ Minh, với mái tóc thưa thớt mầu than đen và bộ ria mép. Năm 1983, Minh đến một hội nghị ở Washington (Oa-sinh-tơn) và tuyên bố có ý định chiếm lại Việt Nam. Minh là cựu sĩ quan hải quân của “quân đội Việt Nam Cộng hòa”. Trước đám đông, ông ta nói sẽ xây dựng lực lượng để “lật đổ chính quyền Hà Nội, giải phóng quê hương khỏi sự cai trị độc tài của cộng sản”. Đám đông người Việt sang Mỹ tị nạn không ngớt tán tụng. Trong bộ đồ đen, chiếc khăn kẻ sọc dài quấn quanh, Minh cười mãn nguyện... Minh bắt đầu xây dựng đội quân du kích vài năm trước, được gọi là “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam”. Tổ chức này lập căn cứ ở vùng rừng núi hoang dã của Đông - Nam Á gần Việt Nam, thiết lập mạng lưới các chi hội trên khắp nước Mỹ để quyên tiền cho các cuộc xâm lược. Các chi hội như đã phát triển thành “mặt trận” thứ hai trên đất Mỹ, sử dụng bạo lực để bịt miệng người Mỹ gốc Việt dám nêu nghi vấn về quan điểm chính trị hay mục tiêu của tổ chức. Chỉ cần họ kêu gọi bình thường hóa quan hệ với người cộng sản có thể bị hành hung, thậm chí trong một số trường hợp bị thủ tiêu hèn hạ.
FBI từng mở cuộc điều tra về khủng bố tại Mỹ nhằm vào hoạt động của “mặt trận”. Hàng nghìn trang hồ sơ mới giải mật của FBI mà ProPublica và Frontline có được cho thấy các điều tra viên nghi ngờ tổ chức của Minh dàn dựng các vụ ám sát nhà báo Mỹ gốc Việt, cũng như một loạt vụ đánh bom, tiến công, đe dọa giết người. Trong một biên bản chưa được công bố, một điều tra viên FBI mô tả “mặt trận” đã “thực hiện một chiến dịch dập tắt tất cả các phe đối lập với nó”. Phạm vi các hành động khủng bố bị nghi ngờ khá rộng. Các nhà báo bị giết ở Texas (Tếch-dát), California (Ca-li-pho-ni-a), Virginia (Vơ-gi-ni-a). Một chuỗi vụ hỏa hoạn trải từ Montreal (Môn-trê-an) tới Orange County (quận Cam), California. Lời đe dọa giết người được gửi đến nhiều cá nhân, gia đình và doanh nghiệp trên đất Mỹ. Các điều tra viên tin rằng “mặt trận” từng thông cáo nhận trách nhiệm về các tội ác này. Tuy nhiên, sau đó FBI đã không bắt giữ, xử phạt hoặc buộc tội bất kỳ cá nhân nào có hành vi khủng bố bằng bạo lực. Lần này tới lần khác, các sở cảnh sát địa phương mở các cuộc điều tra mà không có kết quả. Cuối năm 1990, FBI lặng lẽ dừng điều tra, và làm cho sự việc trở thành một trong những trường hợp khủng bố nghiêm trọng nhất ở nước Mỹ chưa được giải quyết. Để tái tạo một chương của lịch sử, vốn là ẩn số với phần lớn người Mỹ, ProPublica và Frontline đã mua, xem xét các hồ sơ của FBI, hồ sơ của các cơ quan thực thi pháp luật ở Houston, San Francisco, ngoại ô Washington. Chúng tôi đã lần theo dấu tích các cựu điều tra viên cảnh sát, đặc vụ liên bang, công tố viên và người nổi lên trong hồ sơ như là nghi phạm. Chúng tôi phỏng vấn các cựu quan chức chính phủ, cựu sĩ quan của quân đội Mỹ, Việt Nam và Thái-lan; tìm kiếm, trò chuyện với hơn hai chục cựu thành viên của “mặt trận”. Đồng thời, chúng tôi theo chân một số người đến Thái-lan, gặp gỡ các cựu du kích quân người Lào đã cùng chiến đấu với họ. Cuối cùng, chúng tôi đã dành nhiều thời gian trao đổi với gia đình các nạn nhân, gồm cả người bị sát hại, người bị hành hung. Một số nạn nhân còn sống đến nay vẫn chưa dám trả lời công khai, vì có thể họ còn sợ hãi, hoặc vỡ mộng với việc thực thi pháp luật ở Mỹ.
Kết quả điều tra của chúng tôi đã cho thấy thất bại của chính quyền Mỹ trong việc kiềm chế bạo lực do “mặt trận” gây nên, và có nhiều dấu hiệu khả quan để FBI hoặc một cơ quan khác có thể mở lại cuộc điều tra. Thông tin mới bao gồm tập hợp những câu chuyện từ các cựu thành viên “mặt trận”, những người chưa bao giờ nói tới thực thi pháp luật, một trong số đó thừa nhận “mặt trận” chịu trách nhiệm trong việc giết hại hai trong số các nhà báo. Hồ sơ và các cuộc phỏng vấn cho thấy Minh đã ra lệnh giết khoảng 10 tân binh như một biện pháp kỷ luật với đội quân vô tổ chức của ông ta ở nước ngoài. Con số khoảng 10 người chết gồm công dân Mỹ gốc Việt, cũng đủ để FBI vào cuộc.
ProPublica và Frontline đã mời các nhà lãnh đạo hiện nay của FBI thảo luận về cuộc điều tra mà cơ quan này khép lại từ nhiều năm trước. Tuy nhiên, ông J.Comey (G.Cô-mây) - Giám đốc, và các chuyên gia chống khủng bố của FBI không tham gia phỏng vấn hay trả lời các câu hỏi. Thay vào đó, họ ra một tuyên bố: “Vào đầu năm 1980, FBI đã phát động một loạt cuộc điều tra về những vụ tiến công bị cáo buộc động cơ chính trị trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt. Mặc dù ban đầu điều tra như những sự vụ đơn lẻ ở nhiều đơn vị khác nhau, cuộc điều tra cuối cùng đã hợp nhất thành một vụ chính có mật danh là VOECRN theo chỉ đạo của Giám đốc cục bấy giờ là ông L.Freeh (L.Ph-ri). Các vụ án được điều tra bởi các chuyên gia giàu kinh nghiệm của FBI, họ thu thập các bằng chứng, tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn; đồng thời hợp tác chặt chẽ với luật sư của Sở Tư pháp để xác định người chịu trách nhiệm về tội ác và tìm kiếm công lý cho nạn nhân. Bất chấp nỗ lực đó, sau 15 năm điều tra, các nhân viên của Bộ Tư pháp và FBI đã kết luận đến nay chưa có đủ bằng chứng khởi tố vụ án”. Người phát ngôn của các cơ quan khác trong chính phủ cũng không đưa ra bình luận nào, dù họ có hiểu biết về sự tồn tại của “mặt trận”.
Ba cuộc xâm nhập Việt Nam do Minh thực hiện đã thất bại và Minh đã chết năm 1987. Sau một thập niên từ 1980 đến 1991 bị tình nghi là hoạt động khủng bố, “mặt trận” đã tự chia rẽ, uy tín cũng sụt giảm. Những người lãnh đạo thì một số đã chết, một số sống rải rác trên khắp nước Mỹ và đã về hưu… Hiện giờ, các cựu lãnh đạo của “mặt trận” vẫn thỉnh thoảng tiến hành hoạt động tưởng niệm, tổ chức biểu tình kêu gọi lật đổ chế độ Hà Nội...
Trong chiến tranh, Minh mang quân hàm “đề đốc - chuẩn tướng hải quân Việt Nam Cộng hòa”. Theo R. Armitage (R. Ác-mi-ta-giơ) - người đã sống ở Việt Nam khá lâu, sau là quan chức cấp cao của Bộ Quốc phòng Chính quyền Tổng thống R.Reagan (Ri-gân), giám sát chính khu vực Đông - Nam Á; thời Chính quyền Tổng thống G.H.W Bush (G.Bu-sơ), ông là Thứ trưởng Bộ Ngoại giao) thì Minh là “chiến binh có tiếng”. Nhưng năm 1975 khi sang Mỹ, Minh rơi vào tình cảnh thiếu thốn, chỉ có 200 USD trong tài khoản ở một ngân hàng Hàn Quốc và chút ít vàng. Dù có bạn bè ở Mỹ nhưng ông ta bắt đầu cuộc sống mới bằng nghề khuân vác thuê, thợ sơn nhà. Trên giấy tờ, ông ta khai mình là người “không quốc tịch”.
Thời gian đó, Minh tiếp xúc với người Việt trong cộng đồng Tiểu Sài Gòn và nhận thấy nhiều người trong số họ vẫn khao khát phản kháng và trả thù. Bỏ nghề sơn nhà, năm 1981 Minh tới Fresno (Phre-xnơ) để thực hiện kế hoạch cùng với nhóm “cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa” và số người còn nuôi hy vọng về một cuộc chiến tranh nữa ở Việt Nam. “Mặt trận” thành lập, Minh là người lãnh đạo với quyết tâm lật đổ chính quyền Việt Nam. Để phát triển quân đội, Minh không chỉ tuyển người tại Mỹ mà sử dụng các quan hệ cũ để xây dựng mạng lưới lính tình nguyện từ người tị nạn. Ông ta thiết lập căn cứ cho “mặt trận” ở vùng rừng núi đông bắc Thái-lan. Tại đây, lính mới được rèn luyện, chờ thời cơ đến sẽ tiến hành chiến tranh du kích ở Việt Nam.
Về sơ đồ tổ chức của “mặt trận”, theo một thành viên sáng lập là Đỗ Thông Minh thì Hoàng Cơ Minh là lãnh đạo tối cao. Ông ta cùng cấp phó là Lê Hồng cùng sống trong căn cứ trên đất Thái-lan. Tại Mỹ, ủy ban điều hành khoảng 10 người do một cựu đại tá quản lý việc gây quỹ, tuyên truyền, thành lập chi hội ở châu Âu, Canada (Ca-na-đa), Australia (Ô-xtrây-li-a), châu Á. “Mặt trận” tìm mọi cách để kiếm tiền, không loại trừ sử dụng thủ đoạn để ép buộc người Việt ở Mỹ phải góp tiền. Theo một biên bản được FBI ghi lại thì các đặc vụ ở San Francisco nhận được thông tin rằng, “mặt trận” sử dụng “tống tiền và biện pháp phi pháp khác để góp nhặt và xin tiền”. Cũng theo FBI, thì số tiền “mặt trận” kiếm được ước tính lên đến vài triệu USD…
Vụ ám sát điển hình nhằm vào nhà văn Lê Triết khi ông này cùng vợ về nhà sau một bữa tiệc tối 22-9-1990. Triết và vợ đã chết khi một loạt đạn cỡ 9 ly bắn qua cửa sổ xe hơi. Các nhà điều tra nhận định đây là vụ tiến công chuyên nghiệp. Lê Triết làm việc cho tờ nguyệt san Văn nghệ tiền phong, phụ trách một chuyên mục về văn chương và có thái độ khinh thị đối với “mặt trận”. Là người chống cộng nhưng ông hoài nghi “mặt trận” và các lãnh đạo của tổ chức này, thường xuyên chỉ trích “mặt trận” tìm mọi cách gây quỹ. Theo tài liệu của FBI, trước khi bị sát hại, nhà văn này đã bị “mặt trận” xúc phạm và đe dọa, ông phải mang theo súng khi đi làm, liên tục thay đổi tuyến đường đi. Ông cũng từng gặp các chỉ huy của "mặt trận" tại một ngôi nhà ở Frederick (Phre-đơ-rích) và thẳng thừng từ chối lời đề nghị thôi chỉ trích tổ chức này.
Để tuyên truyền cho hoạt động của tổ chức và thuyết phục cộng đồng người Việt tại Mỹ tài trợ cho cuộc chiến tranh do “mặt trận” phát động, báo chí là phương tiện được khai thác triệt để. Bởi thế, khi xuất hiện các nhà báo như Lê Triết lên tiếng hoài nghi thì “mặt trận” liền dùng bạo lực đe dọa. Những thông tin về việc bị tiến công, giết hại được gửi đến các phương tiện truyền thông tiếng Việt, trong đó có nêu đích danh năm nhà báo thường đả kích “mặt trận”. Hai người trong đó đã bị giết. Theo Nguyễn Tú A, chủ bút Viet Press - một tờ báo ở quận Cam, thì các thành viên của “mặt trận” quấy rối các nhân viên tờ báo, gây sức ép với các doanh nghiệp để buộc họ phải gỡ bỏ quảng cáo cho đến khi tòa soạn đóng cửa. Ông nhớ lại: “Tôi tin rằng mình đã thiệt hại khoảng 84.000 đô-la”.
Những vụ tiến công, sát hại diễn ra ở nhiều nơi. Đó là cái chết của Phạm Văn Tập - điều hành tạp chí giải trí Mai. Sau vụ án mạng, một tuyên bố được gửi đến giới báo chí nói rằng Tập bị giết vì ông là kẻ tham lam, ủng hộ những người cộng sản bằng việc đăng quảng cáo. Đó là Dương Trọng Lâm bị giết vì có thiện cảm với chính quyền Hà Nội. Nguyễn Đạm Phong thì công bố nghiên cứu về sự thật của “mặt trận”. Ông coi Hoàng Cơ Minh là kẻ gian lận, lừa bịp, gọi Minh và những kẻ tin theo là “lũ hề”. Ông chỉ ra lỗ hổng trong đoạn phim về đội quân của Minh đã được phát sóng toàn nước Mỹ và đăng bài viết trên tờ Tự do với nhan đề Sự thực về đề đốc Minh trở về Việt Nam. Theo Tú Nguyễn, con trai của Nguyễn Đạm Phong, thì “mặt trận” đã cố bịt miệng cha của anh bằng tiền hay lời đe dọa nhưng đều không thành công. Tại buổi gặp gỡ giữa Nguyễn Đạm Phong với lãnh đạo “mặt trận”, một tối hậu thư đã được đưa ra: hoặc dừng lại, hoặc là chết. Vài ngày sau đó Nguyễn Đạm Phong bị bắn chết.
FBI nghi ngờ “mặt trận” đã sử dụng tên giả là VOECRN (viết tắt Vietnamese Organization to Exterminate Communists and Restore the Nation - tạm dịch là: “Tổ chức của người Việt Nam diệt trừ cộng sản và phục hồi quốc gia”). Họ cố tình che giấu vai trò trong các vụ tiến công nhà báo nhưng không kết quả. K.Tang-Wilcox (K.Tang-uyn-coóc), cựu đặc vụ chỉ huy cuộc điều tra của FBI, cho biết: “Những gì cho thấy mối quan hệ giữa chúng là các thông điệp”, “có những lời đe dọa giết người, các vụ tiến công, vụ giết người”. Tang-Wilcox đề cập thông tin từ nhiều cựu thành viên của “mặt trận”, nói tổ chức này đã lập ra một đội sát thủ có mật danh là K-9. Ở FBI có nhiều báo cáo chi tiết về mối liên hệ giữa K-9 với các vụ giết người cụ thể. Bà tin “mặt trận” đã ra tay với vợ chồng Lê Triết, Nguyễn Đạm Phong. Một cựu sĩ quan Việt Nam Cộng hòa vốn là thành viên của “mặt trận” nói ông biết những người chịu trách nhiệm về cái chết của Nguyễn Đạm Phong, và chưa từng có người thực thi pháp luật nào ở Mỹ thẩm vấn ông.
ProPublica và Frontline đã tìm thấy năm thành viên của “mặt trận”, trong đó có Trần Văn Bé Tư. Những người này thừa nhận nhóm sát thủ K-9 đã ra tay sát hại các nhà báo và người phản đối “mặt trận”. Bé Tư là người chống cộng cực đoan. Ông ta cho biết được tuyển chọn tham gia K-9 nhưng không đồng ý, dù rất ngưỡng mộ. “K-9 làm tốt lắm, họ là dân chuyên nghiệp mà”, ông ta nói. “Họ chưa bao giờ bị tóm gáy”. Ông ta cũng nghĩ K-9 đã giết Nguyễn Đạm Phong, có khả năng là chịu trách nhiệm về cái chết của Phạm Văn Tập, Lê Triết cùng vợ. Nhiều năm sau, cựu thành viên “mặt trận” và những người tự coi mình là nạn nhân của tổ chức này vẫn sống tại California và Virginia, Houston và New Orleans (Niu Oóc-lin). Họ chọn sự im lặng, thường là sợ hãi vì không muốn dính vào rắc rối. Đoàn Văn Toại, một người thường chỉ trích “mặt trận” trên mặt báo đã ngừng viết, lui vào ở ẩn sau khi bị bắn gần nhà vào năm 1989. Tam Nguyen là ký giả ở San Jose (Xan Giô-xê) từng bị hành hung đã nói, thời của khủng bố là “ký ức đau đớn tôi đã cố gắng chôn sâu”. Nguyễn Xuân Nghĩa từng là người phát ngôn của “mặt trận”, sau nhiều trò chuyện cuối cùng cũng thừa nhận đã có một phe phái chủ trương bạo lực trong tổ chức, ông ta đã từng tham gia một cuộc họp bàn việc ám sát một biên tập viên báo chí nổi tiếng ở quận Cam. Còn gia đình các nạn nhân, như Tú Nguyễn - con trai của Nguyễn Đạm Phong, cho biết “Chúng tôi chỉ muốn có câu trả lời”, ông nói: “Chỉ thế thôi”.
Dương Trọng Lâm bị giết ngày 21-7-1981. Chỉ 24 giờ sau đó, cảnh sát điều tra của San Francisco đã viết ra một danh sách ngắn những nguyên nhân có thể giải thích vì sao ông bị bắn chết bên ngoài căn hộ của mình, trong đó có vài nguyên nhân thường gặp như vì tình, vì tiền… Nhưng hồ sơ của cảnh sát cũng cho thấy các thám tử có lý do để xem xét từ nguyên nhân chính trị. Lâm và tờ báo của ông được xem là có cảm tình với cộng sản Việt Nam. Và Lâm từng nhận được lời đe dọa từ những người trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt vốn coi Lâm là kẻ phản bội. Vài ngày sau khi Lâm chết, một thư nặc danh đã được gửi đến tòa soạn nói rằng Lâm bị trừng trị vì ủng hộ cộng sản. Bạn bè của Lâm viết đơn gửi cảnh sát địa phương và FBI, trích dẫn thư này và đặt ra giả thuyết rằng giết Lâm là một phần của việc mở rộng hành vi bạo lực với động cơ chính trị. Các công tố viên liên bang đã chất vấn FBI việc giết Lâm có phải là “một hành động có thể là khủng bố”. Nhưng FBI kết luận không phải vì lý do chính trị. Nhiều năm điều tra một chuỗi tội ác tương tự, cuối cùng các điều tra viên cũng nhận ra sai lầm: Lâm chỉ là một trong nhiều nhà báo người Mỹ gốc Việt bị sát hại bởi “mặt trận” - tổ chức nuôi giấc mơ một ngày nào đó chiếm lại Việt Nam, và sẵn sàng thủ tiêu bất cứ ai thách thức nó.
Năm 1995, hơn 20 vụ án được hợp vào “vụ án lớn”, một đội điều tra truy tìm manh mối được thành lập, nhưng việc khởi tố hình sự không diễn ra. ProPublica và Frontline xem xét các cuộc điều tra của địa phương và liên bang với “mặt trận”, và thấy nhiều manh mối bị bỏ qua, do đó không thể tìm ra đủ bằng chứng để tiếp tục. Chúng tôi tiến hành phỏng vấn năm người trực tiếp tham gia cuộc điều tra của FBI cũng như của cảnh sát địa phương; tìm được các hồ sơ vụ án đã 30 năm tuổi, báo cáo điều tra từ bảy vùng lãnh thổ; nói chuyện với ít nhất 10 người được xác định trong các hồ sơ như là nghi phạm của vụ án. Người chỉ huy nhóm điều tra của FBI trong nhiều năm, bà Tang-Wilcox nói rằng cuộc điều tra là một ung nhọt, dẫn đến việc nghỉ hưu của bà, nhưng bà không nghĩ nó cần phải dừng lại. Từ cách thức các điều tra viên tiến hành với vụ án Dương Trọng Lâm, ProPublica và Frontline nhận ra nhiều năm trước những người thực thi pháp luật đã có thiếu sót nghiêm trọng. Hendrix (Hen-đrít) và Sanders (Xan-đơ) là thám tử của Sở cảnh sát San Francisco không nghĩ nhiều tới động cơ chính trị phía sau việc ám sát Lâm và họ nghĩ đây là kết quả tranh chấp tiền bạc. Nancy Dương (Nan-ci Dương) - em gái của Lâm, cho biết cô nói với các nhà điều tra có thể quan điểm chính trị của Lâm là nguyên nhân dẫn tới cái chết của anh. Bản thân cô cũng đã bị đe dọa, khi một người đàn ông chĩa súng vào đầu cô, rồi nói: “Mày là đồ Việt cộng! Hãy cút khỏi đất nước này”. Cô chia sẻ với họ về lời đe dọa, về cuộc điện thoại gọi đến nhà cô để nhận trách nhiệm về cái chết. Song bản ghi cuộc thẩm vấn mà Hendrix và Sanders tiến hành cho thấy bất đồng ngôn ngữ là rào cản của sự tiếp xúc. Theo Trang Q. Nguyễn, nhà tư vấn các đơn vị truyền thông tiếng Việt ở Nam California, thì “có một rào cản văn hóa, và mọi người sợ nói”...
Vụ án Dương Trọng Lâm nằm trong giai đoạn đầu chiến dịch sử dụng bạo lực mà “mặt trận” tiến hành. Dường như quá trình điều tra đã thiếu cố gắng vì chưa có bằng chứng cho thấy điều tra viên kiểm tra danh sách điện thoại của Lâm, hoặc người gần gũi với Lâm, trong khi bạn bè và người thân đã báo về việc khi còn sống Lâm đã bị đe dọa qua điện thoại, hay cuộc gọi đến gia đình Lâm của người tự nhận đã ra tay giết hại. Nếu FBI lúng túng khi giải quyết các tội ác riêng lẻ bị nghi ngờ liên quan “mặt trận” thì còn cách khác để dựng lại cuộc điều tra. Đạo luật trung lập Santa Ana của Mỹ quy định về tội ác liên bang với bất kỳ công dân Mỹ hoặc người cư trú đã hỗ trợ tài chính, tham gia “bất kỳ cuộc viễn chinh quân sự hay hải quân” chống lại một nhà nước “đang trong trạng thái hòa bình với Mỹ”. Sự thật thì “mặt trận” chưa từng che giấu việc có hành vi vi phạm Đạo luật này.
Đó là các sự kiện công cộng được tổ chức ở nhiều thành phố nước Mỹ, lời khẩn cầu người tham dự quyên tiền cho cuộc chiến tranh do “mặt trận” tiến hành, các bức ảnh “biểu tình kháng chiến” ở Santa Ana (San-ta A-na), Caliphornia, Los Angeles (Lốt An-giơ-lét), Washington, cho thấy đám đông tụ tập để ủng hộ. FBI cũng biết về quảng cáo của “mặt trận” trên báo chí tiếng Việt kêu gọi quyên góp tiền bạc mua vũ khí; xây dựng căn cứ quân sự ở Thái-lan từ đó xâm nhập vào Việt Nam; hình ảnh và đoạn phim về việc huấn luyện tại căn cứ được sử dụng để kiếm tiền; đoạn phim miêu tả tham vọng quân sự của “mặt trận” được phát sóng toàn quốc trên truyền hình CBS. Song trong hàng nghìn trang hồ sơ điều tra của FBI, các cuộc phỏng vấn cựu thám tử và công tố viên đã không có thảo luận nghiêm túc nào về Đạo luật trung lập, ngay cả khi FBI nghi ngờ “mặt trận” đang thực hiện các vụ ám sát trên lãnh thổ nước Mỹ.
ProPublica và Frontline đã hỏi FBI văn phòng chưởng lý ở San Francisco tại sao “mặt trận” chưa bao giờ bị khởi tố vì hành vi kiếm tiền nhằm lật đổ chính phủ Việt Nam. Hai cơ quan đều không trả lời. Tang-Wilcox không nghĩ tình hình chính trị những năm 80 của thế kỷ trước khả thi cho trường hợp này. Ở thời điểm đó, Mỹ cam kết theo đuổi học thuyết Reagan, ủng hộ phong trào chống cộng có vũ trang… GS E.Kontorovich (E.Côn-tô-rô-vích) ở Đại học Luật Northwestern cho biết, ông không ngạc nhiên, vì truy tố trên cơ sở đạo luật này là cực kỳ hiếm gặp, ngay cả khi cá nhân, tổ chức vi phạm “cốt lõi những gì Đạo luật nghiêm cấm”. Với trường hợp kể trên, E.Kontorovich cho rằng “không công tố viên nào sẵn sàng trở thành người tiên phong”. Mặc dù công tố viên liên bang không hành động trên cơ sở sự vi phạm Đạo luật trung lập thì hồ sơ, tài liệu thẩm vấn vẫn cho thấy các cơ quan liên bang đã nhận thức rõ mục đích và hoạt động của tổ chức này.
Hoàng Cơ Minh - lãnh đạo “mặt trận” và là người giám sát việc huấn luyện ở căn cứ tại Thái-lan, đã có cuộc gặp với quan chức của Bộ Ngoại giao ở Băng-cốc để thảo luận về kế hoạch xâm nhập Việt Nam của ông ta, như trong phỏng vấn một nhân viên Bộ Ngoại giao đã về hưu và hồi ký của một cựu thủ lĩnh “mặt trận” đề cập. Người quan trọng nhất trong chính quyền Mỹ mà “mặt trận” từng liên lạc là R.Armitage. Khi FBI phỏng vấn trong cuộc điều tra về “mặt trận”, R.Armitage nói ông ta vẫn tiếp tục giữ mối quan hệ bạn bè với Minh nhiều năm sau khi Minh đến Mỹ. Ông tin có khả năng “mặt trận” thực hiện các cuộc ám sát chính trị, ông cũng nghe tin đồn là “mặt trận” đã làm như vậy. Hồi đáp những câu hỏi được ProPublica và Frontline gửi đến, R.Armitage viết rằng, ông coi Minh như là “một trong các sĩ quan tốt nhất” ông gặp ở Việt Nam. Ông khẳng định mình đã nói với FBI về các tin đồn về việc “mặt trận” giết người, nhưng cũng thừa nhận không hề thông báo với bất kỳ người thực thi pháp luật nào về tin đồn trước buổi thẩm vấn tiến hành năm 1991. Ông coi ý đồ xâm lược Việt Nam của Minh là “trò vặt vãnh của một thằng ngốc”. Nhưng ông có hỗ trợ Minh một số việc ở Thái-lan. Chúng tôi không tìm ra bằng chứng cho thấy các cơ quan chính phủ Hoa Kỳ tài trợ cho “mặt trận”. Theo R.Armitage, ông nói rõ với các quan chức Thái-lan rằng, Hoa Kỳ không có chương trình hỗ trợ chính thức nào cho mục đích quân sự của Minh. Dù thế, sự giúp đỡ của R.Armitage dường như có kết quả: Một vị tướng người Thái thành người bảo trợ “mặt trận”, cho phép thành lập cơ sở du kích ở đông bắc Thái-lan, gần sông Mê Công và biên giới Lào.
“Mặt trận” mua các loại vũ khí hạng nhẹ như súng AK-47 và M16, M72. Kế hoạch của Minh là di chuyển về phía đông, vượt sông Mê Công, qua Lào, trước khi xâm nhập vào Việt Nam. Sau chuyến đi bằng xe tải trên những con đường bùn đất trơn tuột ở Thái-lan, ProPublica và Frontline đã tìm thấy một người Lào là đồng minh cũ của Hoàng Cơ Minh. Người này nói Minh rất tàn bạo khi trừng phạt người mất lòng tin vào sứ mệnh. Có đến 10 người lính bị xử tử vì bất phục tùng hay thiếu tận tụy. Có thể một hoặc nhiều trong số đó là công dân Mỹ. FBI nhận được ít nhất một báo cáo về các vụ giết người tại căn cứ. Một thành viên “mặt trận” đã trốn thoát năm 1986 liên lạc với văn phòng tại Honolulu (Hô-nô-lu-lu) nói với các điều tra viên có hai tân binh bị giết tại trại. Không rõ FBI làm gì với những thông tin này.
Cáo trạng do các công tố viên liên bang ở San Jose (Xan Giô-xê) công bố ngày 10-4-1991 như là cơ hội kết thúc chiến dịch khủng bố của “mặt trận”. Năm thành viên “mặt trận” bị cáo buộc đã lấy trộm hàng chục nghìn USD tiêu xài cá nhân mà không đóng thuế. Cáo trạng ghi rõ: “Các khoản đóng góp được chuyển thành thu nhập cho các bị cáo mà họ không hề trình báo hoặc giải thích với cơ quan thuế”. Hai trong số bị cáo phải đối mặt bản án 20 năm tù. Một người bị xét mức án 15 năm. D.Zwemke (Đ.Giem-cơ), cựu trung sĩ cảnh sát San Jose đã giúp các công tố viên liên bang xử lý trường hợp này, cho biết các bị cáo đề nghị cung cấp thông tin về tội ác của “mặt trận” với các nhà báo và người khác để đổi mức án nhẹ hơn. Cùng làm việc với FBI và D.Zwemke, các nhân viên thuế cố gắng tìm ra đường đi của tiền khi nó di chuyển qua nhiều tài khoản do “mặt trận” và các doanh nghiệp kiểm soát từ năm 1984 đến 1987. Một số tiền lớn được chuyển đến Băng-cốc và cũng có cáo buộc về sự thất thoát trong tài khoản cá nhân của các chỉ huy hàng đầu của “mặt trận”.
Các thành viên “mặt trận” bị truy tố khẳng định họ vô tội. Luật sư của họ lập luận rằng, các thành viên “mặt trận” phải được miễn tố vì họ đã ký một thỏa thuận bí mật với CIA, Bộ Quốc phòng. Các cơ quan này cho phép “mặt trận” làm bất kỳ điều gì muốn với số tiền kiếm được ở Mỹ để đổi lấy sự giúp đỡ của họ trong việc tìm kiếm tù nhân Mỹ ở Việt Nam. ProPublica và Frontline tìm cách có được toàn bộ hồ sơ vụ án nhằm dựng lại những gì đã xảy ra. Điều ngạc nhiên là nhân viên tại tòa án liên bang ở San Jose và San Francisco cho biết các hồ sơ đã bị mất và ở Trung tâm dữ liệu liên bang, không thể tìm thấy các tài liệu đó. Văn phòng chưởng lý tại San Francisco không có bình luận gì. Bộ Quốc phòng Mỹ và CIA từ chối nói về “mặt trận”. Những gì còn sót lại cho thấy cuộc điều tra đã được đóng lại rất bất ngờ.
Năm 1995, giám đốc của FBI lúc bấy giờ là L.Freeh đã tới thăm văn phòng ở San Francisco, nơi bà Tang-Wilcox đang điều tra về “mặt trận”. Bà mang về rất nhiều hồ sơ, cố gắng tìm hiểu mối liên hệ giữa “mặt trận” với tội ác. Trong một buổi tiếp kiến L.Freeh, bà khẩn cầu ông cho bà đủ nguồn lực để theo đuổi vụ án hoặc đóng nó lại. Cuộc điều tra sau đó chính thức được công bố là một “vụ án lớn” về tội phạm có tổ chức và các căn cứ khủng bố. Kết hợp với các đồng nghiệp mới được bổ sung, bà Tang-Wilcox làm được nhiều việc đáng kể. FBI đã định mã danh cho cuộc điều tra là VOECRN. Một danh sách người bị nghi ngờ là sát thủ được cung cấp khiến các điều tra viên tin rằng cái tên “K-9” đã thật sự tồn tại. Tuy được mở rộng quy mô, nhưng thái độ của các điều tra viên trong cuộc điều tra lại không nhất quán. Nhiều người trong số họ coi đó là vụ vớ vẩn. Trong một biên bản, một đặc vụ đã than phiền về “sự phức tạp quá mức”. Bà Tang-Wilcox thừa nhận: “Đó không phải là công việc mà mọi đặc vụ đều muốn làm”.
Điều tra của ProPublica và Frontline cho thấy trong năm 1995, khi FBI liên kết các vụ đe dọa giết người và khiếu nại nghi là của “mặt trận” với nhau, họ nhận ra 19 trong số các tài liệu gốc hoặc không bao giờ thu thập được, hoặc bị mất hay bị phá hủy. ProPublica và Frontline tìm gặp Johnny Nguyễn (Giôn-ny) Nguyễn - cựu thành viên của “mặt trận”. Với sự giúp đỡ của Sở Cảnh sát Houston, FBI tìm cách thu thập thông tin về người này, vì có nguồn tin ông ta “cầm đầu nhóm sát thủ K-9”, và đã giết Nguyễn Đạm Phong. Được hỏi, Johnny Nguyễn trả lời, ông ta chưa từng biết Đạm Phong, nói gì tới làm hại; thẳng thừng phủ nhận việc từng là thành viên của K-9. Johnny Nguyễn kể khi đó đã bảo với những người nghĩ ông ta là kẻ giết người: “Được rồi, nói với FBI tôi là K-9. Nói với FBI nhốt tôi lại”, “chẳng có nhân chứng, vật chứng”.
Những nỗ lực tiếp tục cuộc điều tra bắt đầu từ năm 1995 và chỉ kéo dài được vài năm. FBI không nói rõ khi nào chính thức đóng lại. Bà Tang-Wilcox bày tỏ sự hối tiếc khi trả lời phỏng vấn của ProPublica và Frontline “Tôi cảm thấy tồi tệ”, “Tôi đã không thể mang công lý đến cho họ và mang lại câu trả lời cho gia đình các nạn nhân”. Cuộc điều tra ở cấp liên bang khép lại, các vụ án giết người được giao cho cảnh sát địa phương và cho phép họ nếu muốn thì tiếp tục truy tìm kẻ giết người. Nhưng không có vẻ cuộc điều tra sẽ tiếp tục. Sau nhiều tháng cố gắng tìm gặp các điều tra viên ở Sở Cảnh sát San Francisco phụ trách vụ án Dương Trọng Lâm, gần đây ProPublica và Frontline nhận được cuộc gọi cho biết chẳng thể nói gì về vụ án và họ chỉ vừa mới trích lục tài liệu từ kho lưu trữ để bắt đầu đọc./.
TC
Đăng nhận xét