Những biến chuyển mạnh mẽ trên toàn cầu gần đây khiến nhiều người đặt câu hỏi liệu thế giới đã thực sự bước vào thời kỳ Chiến tranh Lạnh kiểu mới?
Xung
đột Nga – Ukraina bùng phát, đẩy quan hệ Moskva và phương Tây lên cao trào khi
hai bên liên tục tung các đòn trừng phạt đáp trả lẫn nhau. Quan hệ Mỹ – Trung
Quốc chưa hết nóng khi cả Washington và Bắc Kinh có những động thái cho thấy
không bên nào chịu nhường bên nào. Viễn cảnh đó khiến các nhà quan sát cho
rằng, có thể thế giới đang bước vào một thời kỳ Chiến tranh Lạnh mới.
Mới
đây, Đại sứ Trung Quốc tại Nga Trương Hán Huy nói, cuộc khủng hoảng ở Ukraina
và chuyến thăm mới nhất của Chủ tịch Hạ viện Mỹ Nancy Pelosi tới Đài Loan
(Trung Quốc) là những động thái cho thấy Washington đang có ý định vực dậy tâm
lý Chiến tranh Lạnh. Theo vị này, Chiến tranh Lạnh mới đã và đang diễn ra.
Đối
đầu Nga – phương Tây
Thuật
ngữ “Chiến tranh Lạnh” được nêu ra lần đầu tiên vào tháng 7/1947 để miêu tả sự
chia rẽ chính trị giữa Mỹ và Liên Xô. Cuộc đối đầu kéo dài đó được cho là kết
thúc năm 1991 với sự sụp đổ của Liên Xô. Tuy nhiên, những gì đang diễn ra ở
Ukraina và căng thẳng không có dấu hiệu giảm nhiệt trong quan hệ quốc tế khiến
cho nguy cơ “Chiến tranh Lạnh” hiện hữu, đe dọa sự ổn định.
Dưới
góc nhìn của giới quan sát, những gì diễn ra tại Ukraina từ hồi tháng 2 đến nay
dường như đã đi quá giới hạn trong quan hệ Nga và phương Tây. Giờ đây, khác
biệt là chủ yếu và hai bên khó có thể tìm thấy điểm tương đồng để cùng hợp tác.
Rạn nứt trong quan hệ giữa Moskva và phương Tây ngày càng sâu rộng, khó có thể
hàn gắn.
Nga
vượt qua Iran, trở thành quốc gia hứng chịu nhiều lệnh trừng phạt nhất thế giới
với hơn 8.000 lệnh trừng phạt. Mỹ và đồng minh đã áp loạt đòn cấm vận với quy
mô chưa từng có đối với Moskva.
Nga
và phương Tây tuyên bố trừng phạt, đáp trả nhau trên mọi mặt trận kinh tế,
chính trị, quân sự, ngoại giao… Và cuộc đối đầu không tiếng súng giữa Moskva và
phương Tây trên mặt trận kinh tế xem ra cũng không kém phần căng thẳng.
Các
quốc gia phương Tây đã giáng đòn cấm vận lên Nga với những biện pháp trừng phạt
khắc nghiệt, chưa từng có tiền lệ, hạn chế Nga tiếp cận hệ thống tài chính toàn
cầu. Mục tiêu đòn trừng phạt của phương Tây rất rõ ràng, muốn gây tổn thất, cô
lập Nga, thậm chí làm kiệt quệ kinh tế nước này.
Tuy
nhiên, Nga dường như đã lường trước kịch bản, có những toan tính sâu xa, ít
nhiều nắm thế chủ động trong “trò chơi trừng phạt” đang diễn ra. Sau hơn 5
tháng bùng phát xung đột Nga – Ukraina, kinh tế của Nga vẫn trụ vững trước
những đòn trừng phạt của Mỹ và đồng minh. Tổng thống Vladimir Putin tuyên bố,
lạm phát tại nước này đã chậm lại, trong khi tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức ổn
định.
Cuộc
chiến Nga và phương Tây trên mặt trận kinh tế đã phơi bày những bất hòa khó có
thể hàn gắn giữa hai bên. Giờ đây, để tìm được yếu tố có sự liên kết giữa
Moskva và phương Tây chẳng khác nào “mò kim đáy biển”, khác biệt là chủ yếu và
hố ngăn cách trong quan hệ kinh tế giữa hai bên ngày càng sâu rộng.
Có
lẽ sẽ còn phải mất nhiều thời gian, thậm chí cả Nga và phương Tây đều hiểu rằng
việc gỡ bỏ những hạn chế này dường như là điều không thể. Một số phân tích cho
rằng, điều đó không khác cuộc Chiến tranh Lạnh mới giữa hai bên.
Đó
là trên mặt trận kinh tế, đối đầu giữa Nga và phương Tây trên mặt trận quân sự
thậm chí còn diễn ra gay gắt hơn. Moskva và phương Tây không đem khí tài để đấu
trực diện, mà hai bên đồng thời diễn ra cuộc đua tranh trên mặt trận quân sự,
liên tục chạy đua vũ trang, phô trương sức mạnh quân sự.
Đối
với Nga, việc nước này mở chiến dịch quân sự đặc biệt nhằm vào Ukraina là lời
cảnh báo đanh thép đối với Mỹ và đồng minh. Moskva muốn gửi gắm thông điệp cứng
rắn đến NATO rằng, việc liên minh quân sự này mở rộng về phía Đông là mối đe
dọa với an ninh Nga, vượt qua “lằn ranh đỏ” trong quan hệ song phương và nước
này sẽ đáp trả quyết liệt.
Cả
Mỹ và đồng minh cũng hiểu rằng, việc đem quân đối đầu trực diện với Nga trên
chiến trường Ukraina tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ Thế chiến thứ III. Vì thế, liên
minh này chỉ cung cấp viện trợ quân sự cho Ukraina đối phó Nga.
Cắt
đứt mọi kênh tiếp xúc, giao lưu đi lại và kinh tế với Nga, Mỹ dồn nguồn lực hậu
thuẫn Ukraina trong cuộc xung đột với quốc gia láng giềng với hàng tỷ USD viện
trợ quân sự cùng nhiều loại vũ khí, trang thiết bị hiện đại như các loại tên
lửa chống tăng, tên lửa phòng không và mới đây là loại pháo tầm xa…
Dù
Mỹ chưa trực tiếp tham chiến, song viện trợ quân sự cùng trợ giúp huấn luyện,
thông tin tình báo cho Ukraina đã khiến giới quan sát quân sự cho rằng,
Washington và phương Tây thực tế đang tham gia cuộc chiến tranh ủy nhiệm tại
Ukraina. Hơn nữa, Washington cũng tăng cường quân và khí tài quân sự tại các
nước thành viên NATO, sẵn sàng đối phó Moskva.
Căng
thẳng Mỹ – Trung
Mới
đây, Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ – ông Tần Cương – khẳng định, không quốc gia nào
mong muốn Chiến tranh Lạnh mới nổ ra, bởi lẽ không ai có thể thắng cuộc. Ông
Tần Cương tin rằng, chiến tranh sẽ dẫn đến những hậu quả không thể chống đỡ nổi
đối với toàn thế giới.
Trước
đó, Ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken nói, Washington không muốn “Chiến tranh Lạnh
kiểu mới” với Bắc Kinh, tuyên bố Mỹ sẽ không ngăn cản Trung Quốc phát triển
kinh tế, nhưng muốn nước này tuân thủ các luật lệ quốc tế.
Tuyên
bố của giới chức hai nước là một chuyện, còn trên thực tế, quan hệ Mỹ và Trung
Quốc đang khó tìm được điểm chung. Quan hệ hai bên đã rơi xuống mức tồi tệ nhất
trong nhiều thập kỷ dưới thời cựu Tổng thống Donald Trump khi Washington châm
ngòi cuộc chiến thương mại và áp thuế quan với hàng hóa Trung Quốc. Tình hình
không hề được cải thiện, thậm chí xấu đi dưới thời ông Joe Biden.
Quan
hệ Mỹ – Trung trở nên hết sức căng thẳng sau chuyến thăm Đài Loan (Trung Quốc)
của Chủ tịch Hạ viện Nancy Pelosi. Sau đó, Bắc Kinh tuyên bố “đóng băng” đối
thoại, hủy một loạt hợp tác với Washington. Giới phân tích cho rằng, việc “đóng
băng” này khiến 2 nước rơi vào tình cảnh “đu đưa trên miệng hố” của một cuộc
Chiến tranh Lạnh.
Trên
tờ South China Morning Post (SCMP), nhận định về căng thẳng Mỹ – Trung mới đây,
giáo sư Nghê Lạc Hùng tại Đại học Chính pháp Thượng Hải (Trung Quốc), cho rằng,
tuyên bố hủy bỏ ba cơ chế đối thoại quốc phòng với Mỹ của Trung Quốc (nhóm công
tác của Bộ Quốc phòng hai nước, liên lạc giữa lãnh đạo cấp chiến khu và cơ chế
tham vấn an toàn quân sự trên biển) là dấu hiệu cho thấy Bắc Kinh đã chuẩn bị
cho cuộc đối đầu kéo dài. Động thái của Trung Quốc nhằm gửi đi thông điệp chuẩn
bị sẵn sàng cho các thách thức về quân sự.
Đồng
quan điểm, cũng trên SCMP, nhà nghiên cứu Collin Koh tại Viện Nghiên cứu Quốc
phòng và Chiến lược (IDSS – Singapore), cho rằng, việc thiếu các kênh đối thoại
và cơ chế xây dựng lòng tin khác sẽ khiến nguy cơ leo thang tăng lên, trong khi
cơ hội giảm leo thang mất đi. Ông nhận định, nguy cơ lớn hơn là khả năng căng
thẳng liên quan Đài Loan khoét thêm hố sâu ngăn cách giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trong
khi đó, trong bài bình luận trên tờ Nikkei Assia hồi tháng 6, ông Rizal Ramli –
từng là Bộ trưởng Điều phối Các vấn đề Hàng hải của Indonesia thuộc nội các đầu
tiên của Tổng thống Joko Widodo – cho rằng, ranh giới đang được vẽ trước những
gì diễn ra trong quan hệ Mỹ – Trung và điều này được coi là sự khởi đầu của một
cuộc Chiến tranh Lạnh mới. Nhưng có sự khác biệt quan trọng giữa Chiến tranh
Lạnh lần thứ nhất và những căng thẳng gia tăng thời gian gần đây trong quan hệ
Washington và Bắc Kinh.
Sự
khởi đầu của một cuộc Chiến tranh Lạnh mới
Khi
bước vào Chiến tranh Lạnh mới với Trung Quốc, Washington không chỉ phải cạnh
tranh với Bắc Kinh để giành vị trí bá quyền ở khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình
Dương, mà giờ đây nước này còn phải đối phó những mối đe dọa an ninh mới và cận
kề châu Âu do hậu quả từ xung đột Nga – Ukraina.
Trong
thời kỳ hậu Thế chiến thứ II, Trung Quốc đối mặt nhiều khó khăn kinh tế và biến
động chính trị trong nước. Giờ đây, mọi chuyện đã khác khi Bắc Kinh có nền kinh
tế lớn thứ hai thế giới, trong khi năng lực quân sự xếp thứ ba sau Mỹ và Nga.
Do đó, vai trò và vị thế của Trung Quốc trên trường quốc tế quan trọng hơn bao
giờ hết. Ảnh hưởng ngày càng tăng của Bắc Kinh đe dọa vị trí siêu cường của
Washington.
Nhiều
thách thức đặt ra đối với Mỹ và đồng minh khi họ ngày càng lún sâu trong xung
đột Nga – Ukraina, liên tục chi tiền, “bơm” khí tài cho Kiev. Điều này sẽ khiến
Tổng thống Joe Biden càng có ít nguồn lực hơn để tập trung việc đối phó Trung
Quốc ở Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương.
Trên
thực tế, Tổng thống Joe Biden và đội ngũ cố vấn về chính sách đối ngoại của ông
đã có sự cải thiện trong chính sách về châu Á của Mỹ kể từ khi ông nhậm chức
hồi tháng 1/2021. Không giống người tiền nhiệm Donald Trump, ông Joe Biden và
Ngoại trưởng Antony Blinken hiểu sự cần thiết tăng cường liên kết, đẩy mạnh
liên minh với các đồng minh và đối tác ở khu vực trong cuộc đối phó với Trung
Quốc.
Dưới
thời ông Biden, mối quan hệ với châu Âu đã được khôi phục, đồng thời quan hệ
ngoại giao giữa Mỹ với các đồng minh và đối tác ở châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc
và khối ASEAN cũng được tăng cường, trong khi các liên minh quân sự song phương
và đa phương cũng dần được củng cố.
Cách
tiếp cận đa phương của ông Biden đã được trình bày tại hội nghị thượng đỉnh
nhóm “Bộ Tứ – QUAD” hồi tháng 5 ở Tokyo, nơi các nhà lãnh đạo Nhật Bản,
Australia, Ấn Độ và Mỹ ra tuyên bố chung, tái khẳng định cam kết của họ đối với
khu vực Ấn Độ Dương – Thái Bình Dương tự do và rộng mở. Điều đó cho thấy
Washington sẽ không “chơi một mình” trong chiến lược đối phó, ngăn chặn ảnh
hưởng Bắc Kinh ở khu vực.
Quan
hệ giữa Nga và phương Tây, Mỹ và Trung Quốc sẽ theo chiều hướng nào? Tốt hơn
hay xấu đi? Liệu có quay trở lại thời kỳ đối đầu như Chiến tranh Lạnh?… Khó có
thể đưa ra câu trả lời chính xác vào thời điểm này, song có điều chắc chắn là
xu thế nóng lên hay lạnh đi của mối quan hệ giữa các bên sẽ tác động rất lớn
tới cân bằng chiến lược toàn cầu, đến các mối quan hệ trên thế giới, cũng như
định hình trật tự thế giới mới.
St
Đăng nhận xét