Việt Nam là đất nước đa tôn giáo, đời sống tôn giáo đang trong quá trình chuyển đổi dưới tác động của xã hội đương đại và nền kinh tế thị trường có nhiều biến động. Mối tương tác qua lại giữa điều kiện sinh tồn của người dân với nhu cầu tôn giáo đa phương nhiều chiều, tạo nên “bức tranh” về đời sống tôn giáo đương đại khá phong phú và cũng nhiều phức tạp tiềm ẩn.
Trong
những năm gần đây, tôn giáo phát triển mạnh mẽ, gia tăng về số lượng các tổ
chức, hệ phái, dòng tu tôn giáo, số lượng các tổ chức tôn giáo được nhà nước
Việt Nam công nhận hoặc cấp phép hoạt động (để tiến tới công nhận pháp nhân tôn
giáo) đã tăng gấp 7 lần.
Năm
1999, chỉ có 6 tổ chức thuộc 6 tôn giáo được Nhà nước công nhận (Phật giáo,
Công giáo, Tin Lành, Islam giáo, Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo) với khoảng 14,7
triệu tín đồ (chiếm khoảng 19,4% dân số). Năm 2011, đã có 34 tổ chức thuộc 13
tôn giáo được chính thức công nhận với khoảng 25 triệu tín đồ (chiếm 28,4% dân
số). Năm 2022, đã có 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo được Nhà nước cấp đăng ký
hoạt động và công nhận pháp nhân tôn giáo.
Người
dân có xu hướng tìm “giải pháp tâm linh, tôn giáo” khi họ gặp những trở ngại
trong cuộc sống. Họ chủ động tìm đến với tôn giáo để được chia sẻ, được an ủi,
được hỗ trợ về tinh thần, để nâng cao sức khỏe, để chữa bệnh, để giải tỏa bức
xúc... Người dân sẵn sàng bỏ ra một chi phí “cố định” không hề nhỏ cho việc
“tiêu dùng và hưởng thụ” tôn giáo của mình. Đối tượng tin theo tôn giáo không
chỉ là người ít học, người yếu thế, người nghèo, người bất hạnh mà cả người có
học, doanh nhân thành đạt, đảng viên. Như vậy, tôn giáo đang có một “điểm tựa”
thế tục (chính trị, kinh tế, xã hội dân sự) có thể nói là khá vững chãi.
Ngoài
số các tôn giáo và các tổ chức tôn giáo đã được Nhà nước thừa nhận, còn có hơn
100 hiện tượng tôn giáo mới chưa được nhà nước cấp phép sinh hoạt tôn giáo và
công nhận tổ chức nhưng vẫn đang hoạt động. Các hiện tượng tôn giáo mới có thể
phái sinh từ các tôn giáo truyền thống hoặc sáng tạo truyền thống, giải thể
truyền thống, chống lại hoặc có ý định thay thế truyền thống như Jehovah
Witnesses (Chứng nhân Giê hô va), Falun Gong (Pháp Luân Công), Unification
Church (Giáo hội Thống nhất), I-kuan Tao (Nhất Quán đạo), Đạo tràng Thanh Hải
Vô thượng sư, Hội Thánh của Đức Chúa Trời hiệp hội truyền giáo Tin Lành thế
giới, Hội Thánh Đức chúa Trời Mẹ, Ngọc Phật Hồ Chí Minh, Long Hoa Di Lặc,
Trường Ngoại cảm Tố Dương, đạo Cung Tiên, Canh Tân Đặc Sủng, Dương Văn Mình...
Sự
xuất hiện nhiều “hiện tượng tôn giáo mới” làm nảy sinh nhiều vấn đề và thách
thức không nhỏ trong công tác tôn giáo nói chung và công tác dân vận nói riêng:
1) Về
mặt văn hóa - xã hội, chúng đại diện cho những trường phái đức tin và lối sống
đạo khác lạ, nhấn mạnh vào chủ nghĩa tự do cá nhân hoặc liên kết hội nhóm.
2)
Về mặt tôn giáo, người sáng lập và dẫn dắt thường thu hút tín đồ, giáo lý chủ
yếu vay mượn từ các tôn giáo truyền thống có sẵn, pha trộn giữa các ý tưởng và
thực hành nghi lễ của nhiều tôn giáo, thường gắn chặt với văn hóa tộc người
(dân tộc ít người), văn hóa vùng, miền. Tìm cách cạnh tranh, thay thế các tôn
giáo truyền thống, do đó dễ dẫn đến xung đột với các tôn giáo, làm suy yếu sự
hòa hợp tôn giáo vốn là truyền thống của Việt Nam. Xung đột tôn giáo có thể xảy
ra trong bối cảnh của xu hướng đa dạng đức tin và xuất hiện nhiều hiện tượng
tôn giáo mới như hiện nay là một cảnh báo đã được xác thực và minh chứng cả về
lý thuyết và thực tiễn mà công tác tôn giáo cần lưu ý.
SỰ
THAY ĐỔI VỀ BẢN CHẤT, CHỨC NĂNG XÃ HỘI CỦA TÔN GIÁO
Bản
chất và chức năng của tôn giáo đã thay đổi, tôn giáo hiện diện xã hội với mục
đích, chức năng thế tục rõ ràng. Hoạt động tôn giáo không chỉ hướng con người
đến một xã hội “siêu trần thế” mà còn hướng đích xã hội, thu hút tín đồ bằng cả
vật chất, như: tham gia vào công tác an sinh xã hội, từ thiện nhân đạo, hỗ trợ
việc làm, giáo dục - đào tạo, chăm sóc y tế, sức khỏe cộng đồng.
Hiện
tại ở Việt Nam, các tổ chức tôn giáo đã bắt đầu chủ động và có lộ trình dấn
thân vào các hoạt động thế tục với phương châm “xã hội không làm hết nhiệm vụ
với cộng đồng thiểu số thì giáo hội tiếp tay và thay thế”1. Khuyến khích giáo
hội địa phương tham gia vào công tác phát triển cộng đồng, phát triển các mô
hình kinh tế tự viện thích hợp theo từng vùng. Mô hình kinh tế tự viện không
chỉ để tự cung tự cấp mà mục đích thương mại và kinh doanh rõ ràng hơn. Xuất
hiện “bản hội” trong làm ăn kinh tế, sử dụng vốn xã hội (mạng lưới xã hội những
người chung một niềm tin tôn giáo cùng nhau làm kinh tế).
Trong
hành trình thâm nhập sâu vào đời sống xã hội, nhìn chung các tôn giáo mong muốn
“khôi phục” lại vị trí “nổi bật” trong đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội mà một thời gian dài trong lịch sử, tôn giáo đã từng có được. Muốn “bổ sung
và thay thế” các giá trị thế tục còn khiếm khuyết. Và đích cuối cùng là muốn
“có được” số lượng giáo chúng đông đảo. Người dân theo tôn giáo không chỉ thỏa
mãn nhu cầu tâm linh, sức khỏe tinh thần mà còn thỏa mãn cả lợi ích vật chất,
kinh tế. Niềm tin tôn giáo trở nên “bền chặt” hơn, xác đáng hơn. Tôn giáo tạo
ra một lực “hấp dẫn” mới thu hút, níu giữ tín đồ.
Như
vậy, giống như các thiết chế văn hóa - xã hội khác, công tác vận động, tuyên
truyền, tập hợp lực lượng của hệ thống chính trị và các tổ chức đoàn thể xã hội
cần đổi mới về nội dung, cách thức, đi vào giải quyết thực chất các vấn đề liên
quan đến tôn giáo mà người dân quan tâm và bức xúc thì sẽ tạo được uy tín và sự
hài lòng từ phía người dân.
MỐI
TƯƠNG QUAN, VỊ THẾ, CHỨC NĂNG CỦA TÔN GIÁO TRONG XÃ HỘI HIỆN ĐẠI
Từ
những thay đổi nêu trên trong đời sống tôn giáo, giới nghiên cứu tôn giáo trong
nước và quốc tế phân tích sự thay đổi về mối tương quan, vị thế, chức năng của
tôn giáo trong xã hội hiện đại. Đối với Việt Nam, hai học giả người Pháp là
P.Bourdeaux và J.P.Willaime cho rằng, đã có một sự thay đổi căn bản trong mối
quan hệ tôn giáo với nhà nước xã hội chủ nghĩa. Sự đổi mới về chính sách của
nhà nước Việt Nam đối với tôn giáo thể hiện qua việc đánh giá lại vai trò của
tôn giáo trên phương diện đạo đức và xã hội2.
Có
sự gia tăng tương tác hai chiều và mạnh mẽ giữa tôn giáo và thế tục bao gồm
chính trị, khoa học, kinh tế, dịch vụ công. Trong đó, yếu tố tôn giáo và phi tôn
giáo liên tục tìm cách tái định hình lẫn nhau, ảnh hưởng lẫn nhau. Quá trình
này đã “tiếp sức” thêm cho sự phát triển của các tôn giáo hiện nay và cũng giúp
cho chính quyền thông qua những chương trình vận động quần chúng tín đồ đoàn
kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa, thúc đẩy các hoạt động
tôn giáo, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
Như
vậy, để tập hợp được lực lượng, để đoàn kết, đồng thuận xã hội thì công tác dân
vận phải thay đổi về nội dung và hình thức. Chính quyền và đoàn thể xã hội cần
quan tâm thực sự đến nhu cầu tôn giáo của người dân và nhu cầu phát triển của
tôn giáo; xem tôn giáo như một tổ chức xã hội như các tổ chức xã hội khác, bình
đẳng trong quyền thể nhân và quyền pháp nhân; hỗ trợ, giúp đỡ, bảo hộ, hướng dẫn
tôn giáo hoạt động tuân thủ pháp luật và hiến chương điều lệ của tổ chức.
MỐI
QUAN HỆ GIỮA TÔN GIÁO - KINH TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nền
kinh tế thị trường đã thúc đẩy sức phát triển của tôn giáo, mặt khác, tôn giáo
cũng mở rộng lĩnh vực hoạt động kinh tế của mình thông qua việc tạo ra những
“ngành nghề” mới, cung cấp dịch vụ trực tiếp gắn với việc thực hành tâm linh,
tôn giáo của quần chúng. Yếu tố tôn giáo được xem là “tấm lá chắn” cho động cơ
lợi ích kinh tế, “không gian thiêng” của tôn giáo đang được nhìn nhận thực tế
hơn trước rất nhiều.
Trong
bối cảnh đó, một mặt, một số tôn giáo đã có khả năng kinh tế dồi dào để tự lo
cho việc tạo dựng tôn giáo mình mà không cần đến sự hỗ trợ của chính quyền. Mặt
khác, tôn giáo cũng là một nguồn lực, vốn xã hội (mạng lưới đông đảo người dân
ở các tầng lớp khác nhau, như: doanh nhân, trí thức, cán bộ, sinh viên, học
sinh…) sẵn sàng gia nhập vào các hoạt động xã hội thiện nguyện phục vụ cộng
đồng. Do vậy, để tập hợp lực lượng, để quy tụ sức mạnh toàn dân trong phát triển
đất nước thì hệ thống chính trị và các tổ chức đoàn thể xã hội cần nắm bắt lợi
thế này, để tôn giáo góp phần phát triển đất nước.
Ngoài
ra, khi các cấu trúc chính trị - xã hội trở nên phức tạp hơn, người dân trở nên
tự do hơn trong việc lựa chọn tôn giáo thì vấn đề quản trị xã hội cũng sẽ trở
nên phức tạp hơn, quyền tự chủ, tự quyết của các cộng đồng gắn với tôn giáo sẽ
được đặt ra. Lúc này, công tác dân vận, tập hợp lực lượng, đoàn kết, đồng thuận
xã hội phải ở một tầm cao vĩ mô mang tính chiến lược trong chính sách đối
ngoại, đối nội tôn giáo để đảm bảo an ninh tôn giáo, an ninh chính trị - xã
hội.
CỘNG
ĐỒNG TÔN GIÁO
Cộng
đồng tôn giáo cũng có nhiều thay đổi. Trước hết là cộng đồng tín đồ, trước đây,
với Phật giáo, nhóm tín đồ chủ yếu là người già, phụ nữ, giới tiểu thương,
người cô đơn, bất hạnh, người yếu thế thì ngày nay là tất cả các giai tầng,
thành phần xã hội: thanh niên, sinh viên, công nhân, trí thức, viên chức nhà
nước, cán bộ hưu trí, đảng viên, người lao động tự do, người nghèo khổ, ốm đau…
(xu hướng ngày càng trẻ hóa).
Số
lượng người dân không phải là tín đồ tôn giáo tìm đến các cơ sở thờ tự của tôn
giáo cũng ngày một đông. Họ đến để được nghe giảng giáo lý, tập luyện nâng cao
sức khỏe, giao tiếp xã hội, tìm nơi giãi bày, giải tỏa bức xúc,...
Số
lượng tín đồ của các tôn giáo chủ lưu (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành) ở Việt
Nam đều đang tăng lên. Số lượng tín đồ Công giáo ở các vùng miền núi Tây Bắc,
Tây Nam Bộ, Tây Nguyên đang giảm đi hoặc chững lại thì số tín đồ theo đạo Tin
Lành (đặc biệt là các hệ phái Tin Lành của Mỹ như Baptip, Ngũ Tuần3
(pentecostal), Trưởng Lão (Presbyterian), Cơ đốc phục lâm4 (The Seventh-day
Adventist), Chứng nhân Giê hô va (Jehovah’s Witnesses), Môn đệ đấng Christ
(Disciple of Christ), Mặc Môn5 (Mormon/ The Church of Jesus Christ of
Latter-day Saints), Tin Lành Giám lý liên hiệp, Phúc âm toàn vẹn Việt Nam...
đang tăng lên nhanh chóng ở các địa bàn nêu trên.
Cùng
với đó, số lượng tín đồ theo các hệ phái Tin Lành truyền thống nhìn chung đang
chững lại thì số lượng người theo Tin Lành thuần túy Phúc âm và Tin Lành bảo
thủ lại tăng lên. Các hệ phái Tin Lành và Công giáo đang tăng cường truyền đạo
vào các khu vực vốn đậm đặc các tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống (vùng dân tộc
ít người như Mông, Dao, Sán, Ê Đê, M’nông, Gia Rai, Ba Na, Vân Kiều; vùng miền
núi, vùng sâu, xa) dẫn đến hiện tượng người dân bỏ phong tục, tín ngưỡng truyền
thống để theo các tôn giáo mới. Hình thành một cộng đồng tôn giáo - dân tộc,
vấn đề đoàn kết dân tộc - tôn giáo đang được đặt ra khá cấp thiết hiện nay.
Hiện
tại, ở Việt Nam, có trên 26 triệu người theo 16 tôn giáo đã được Nhà nước công
nhận, hơn 70 triệu dân số còn lại đều ít nhiều tham gia vào các hành vi cúng
tế, như: thờ cúng Tổ tiên, thờ Thành hoàng làng, thờ quốc tổ Hùng Vương, thờ Tổ
nghề hoặc thực hành các hành vi cúng tế khác. Người dân có xu hướng tìm “điểm
tựa tinh thần” và “giải pháp tâm linh, tôn giáo” khi họ gặp những trở ngại
trong cuộc sống.
Bên
cạnh cộng đồng tín đồ là tầng lớp tu sĩ chuyên nghiệp với tư cách là chức sắc,
chức việc cũng gia tăng đáng kể. Hiện tại, theo thống kê của Ban Tôn giáo Chính
phủ, cả nước có khoảng 53 nghìn chức sắc, 133 nghìn chức việc các tôn giáo. Đội
ngũ này, trong chiến lược phát triển của các tổ chức tôn giáo, được chú trọng
đào tạo bài bản, hướng đến một tầng lớp tu sĩ chuyên nghiệp, có trình độ học
vấn cao, có kiến thức, hiểu biết quốc tế. Đội ngũ tu sĩ chuyên nghiệp ngày càng
trẻ hóa (độ tuổi trung bình từ 30 - 40 tuổi, so với trước kia là từ 50 - 60
tuổi). Đây có thể xem là nguồn nhân lực dồi dào, nếu công tác tôn giáo vận tốt,
có thể khai thác nguồn nhân lực này cống hiến cho xã hội.
Trong
công tác vận động, đoàn kết tôn giáo cần luôn coi trọng việc phát huy vai trò
của các tôn giáo tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo mọi điều kiện để chức
sắc và tín đồ các tôn giáo thực hiện tốt phương châm "Tốt đời, đẹp
đạo". Phát huy điểm tương đồng, giá trị đạo đức tốt đẹp của các tôn giáo
với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa Việt Nam./.
Đăng nhận xét