Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo 4 nguyên tắc: Nguyên tắc bầu cử phổ thông; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc bầu cử trực tiếp; nguyên tắc bỏ phiếu kín.
Bầu
cử là việc công dân của một quốc gia lựa chọn những người đại diện để trao
quyền cho họ thay mặt mình quyết định các vấn đề trọng đại của đất
nước. Ở Việt Nam, theo quy định tại Điều 7 của Hiến pháp năm 2013 và Điều 1
của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, việc bầu cử đại biểu Quốc
hội và đại biểu HĐND được tiến hành theo 4 nguyên tắc: Nguyên tắc bầu cử phổ
thông; nguyên tắc bình đẳng; nguyên tắc bầu cử trực tiếp; nguyên tắc bỏ phiếu
kín.
Những
quy định của pháp luật bầu cử ở Việt Nam thể hiện một cách nhất quán nhận thức
về các nguyên tắc bầu cử để đảm bảo ý chí của nhân dân, phù hợp với xu hướng
tiến bộ xã hội, phù hợp với Tuyên ngôn nhân quyền mà Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua năm 1948 đã nêu rõ: “Ý chí của nhân dân phải là cơ sở của quyền lực
nhà nước. Ý chí này thể hiện qua các cuộc bầu cử định kỳ và chân thực, theo
nguyên tắc phổ thông đầu phiếu, bình đẳng và bỏ phiếu kín hoặc bằng những tiến
trình bầu cử tự do tương đương”.
1. Nguyên
tắc bầu cử phổ thông
Pháp
luật bầu cử của các nước đều khẳng định, nguyên tắc phổ thông đầu phiếu là một
trong những nguyên tắc cơ bản của chế độ bầu cử. Nguyên tắc phổ thông đầu phiếu
trong bầu cử bảo đảm để mọi công dân không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, đủ 18 tuổi trở lên
đều có quyền bầu cử và đủ 21 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử đại biểu Quốc
hội, ứng cử đại biểu HĐND theo quy định của pháp luật (trừ những người bị
tước quyền bầu cử theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật hoặc người bị kết án tử hình đang trong thời gian chờ thi hành án, người
đang chấp hành hình phạt tù mà không được hưởng án treo, người mất năng lực
hành vi dân sự). Nguyên tắc này thể hiện tính công khai, dân chủ rộng
rãi, đòi hỏi sự bảo đảm để công dân thực hiện quyền bầu cử và ứng
cử của mình.
Yêu
cầu của nguyên tắc này là Nhà nước phải bảo đảm để cuộc bầu cử thực sự trở
thành một cuộc sinh hoạt chính trị rộng lớn, tạo điều kiện thuận lợi để công
dân thực hiện quyền bầu cử của mình, bảo đảm tính dân chủ, công khai và sự tham
gia rộng rãi của các tầng lớp nhân dân trong bầu cử.
Đối
với Việt Nam, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND quy định đối với
việc bầu cử đại biểu Quốc hội:
-
Ngày bầu cử phải là ngày chủ nhật, được Quốc hội ấn định và công bố chậm nhất
là 115 ngày trước ngày diễn ra bầu cử;
-
Các tổ chức phụ trách bầu cử được thành lập công khai, có sự tham gia của đại
diện các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và đoàn thể nhân dân;
-
Thời gian bỏ phiếu được quy định thống nhất trong cả nước từ 7 giờ sáng đến 7
giờ tối (trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định của luật);
-
Mọi công dân cư trú thường xuyên hoặc tạm trú đều được ghi tên vào danh sách cử
tri;
-
Danh sách cử tri được niêm yết công khai chậm nhất là 40 ngày trước ngày diễn
ra bầu cử;
-
Danh sách ứng cử viên cũng được lập và niêm yết công khai chậm nhất là 20 ngày
trước ngày diễn ra bầu cử để cử tri tìm hiểu và lựa chọn.
Nguyên
tắc bình đẳng
Bình
đẳng là một nguyên tắc quan trọng xuyên suốt quá trình bầu cử, từ
khi lập danh sách cử tri cho đến khi xác định kết quả bầu cử. Nguyên
tắc này nhằm bảo đảm tính khách quan, không thiên vị để mọi công dân đều có
khả năng như nhau tham gia bầu cử và ứng cử; nghiêm cấm mọi sự phân biệt, kỳ
thị dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc bình đẳng trong bầu cử được thể hiện
như sau:
-
Mỗi công dân chỉ được ghi tên vào một danh sách cử tri ở nơi mình cư trú.
-
Mỗi người chỉ được ghi tên vào danh sách những người ứng cử ở 1 đơn vị bầu cử
đại biểu Quốc hội hoặc 1 đơn vị bầu cử đại biểu HĐND thuộc 1 đơn vị hành chính
ở cấp tương ứng.
-
Mỗi cử tri chỉ được bỏ 1 phiếu bầu đại biểu Quốc hội và 01 phiếu bầu đại biểu HĐND
ở mỗi cấp.
-
Giá trị phiếu bầu của mọi cử tri như nhau mà không có sự phân biệt.
Nguyên
tắc bình đẳng đòi hỏi phải có sự phân bổ hợp lý cơ cấu, thành phần, số lượng
người được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND các cấp, số lượng
đại biểu được bầu ở từng địa phương, bảo đảm tính đại diện của các vùng, miền,
địa phương, các tầng lớp xã hội; các dân tộc thiểu số và phụ nữ có tỷ lệ đại
diện hợp lý trong Quốc hội, HĐND.
2. Nguyên
tắc bầu cử trực tiếp
Bầu
cử trực tiếp là việc cử tri trực tiếp đi bầu cử, tự bỏ lá phiếu của mình vào
hòm phiếu để lựa chọn người đủ tín nhiệm vào cơ quan quyền lực nhà nước. Điều
69 của Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND quy định: Cử tri không
được nhờ người khác bầu hộ, bầu thay hoặc bầu bằng cách gửi thư. Trường hợp cử
tri không thể tự viết được phiếu bầu thì nhờ người khác viết hộ, nhưng phải tự
mình bỏ phiếu; người viết hộ phải bảo đảm bí mật phiếu bầu của cử tri. Trường
hợp cử tri vì khuyết tật không tự bỏ phiếu được thì nhờ người khác bỏ phiếu vào
hòm phiếu.
Trong
trường hợp cử tri ốm đau, già yếu, khuyết tật không thể đến phòng bỏ phiếu được
thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu bầu đến chỗ ở, chỗ điều trị của cử
tri để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử. Đối với cử tri là người
đang bị tạm giam, người đang chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt
buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc mà trại tạm giam, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ
sở cai nghiện bắt buộc không tổ chức khu vực bỏ phiếu riêng hoặc cử tri là
người đang bị tạm giữ tại nhà tạm giữ thì Tổ bầu cử mang hòm phiếu phụ và phiếu
bầu đến trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện
bắt buộc để cử tri nhận phiếu bầu và thực hiện việc bầu cử.
3. Nguyên
tắc bỏ phiếu kín
Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND nước ta quy định việc bầu cử đại biểu
Quốc hội được tiến hành bằng cách bỏ phiếu kín. Nguyên tắc bỏ phiếu kín nhằm
bảo đảm cho cử tri tự do lựa chọn người mình tín nhiệm mà không bị tác động bởi
những điều kiện và yếu tố bên ngoài. Theo đó, cử tri bầu ai, không bầu ai đều
được bảo đảm bí mật. Cử tri viết phiếu bầu trong khu vực riêng, không ai được
xem, kể cả thành viên Tổ bầu cử; không ai được biết và can thiệp vào việc viết
phiếu bầu của cử tri. Cử tri tự mình bỏ phiếu vào hòm phiếu.
Bốn
nguyên tắc bầu cử nói trên là một chỉnh thể, thiếu sót ở nguyên tắc nào cũng
ảnh hưởng đến nguyên tắc khác. Để buộc các chủ thể phải tuân thủ các nguyên tắc
nói trên, Nhà nước pháp điển hóa các nội dung của chúng thành các quy phạm pháp
luật. Theo chiều hướng của sự phát triển xã hội ngày càng mở rộng dân chủ, thì
các hình thức biểu hiện của các nguyên tắc bầu cử trên đây càng đa dạng, càng
phong phú, càng góp phần đảm bảo tính chất dân chủ của các cuộc bầu cử.
Việc
thực hiện bốn nguyên tắc bầu cử nói trên là một nét ưu việt của chế độ dân chủ
trong bầu cử và là thước đo trình độ dân chủ của đất nước dưới sự lãnh đạo của
Đảng, quy tụ sức mạnh của quần chúng nhân dân, phát huy cao nhất quyền làm chủ
của mỗi công dân; đồng thời, trao đổi để đi đến một cơ cấu đại biểu hợp lý đảm
bảo cho các thành phần xã hội đều có đại diện trong Quốc hội mới./.
Đăng nhận xét