Có thể nói, tham vọng áp đặt chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên hầu hết Biển Đông đã tỏ ra hết sức mâu thuẫn với nguồn tài liệu chính sử của họ. Từ lâu, Trung Quốc đã không từ bỏ việc làm mà tất cả các học giả chân chính đều lên án là cố tình bịa đặt và xuyên tạc lịch sử.
Hành
động này đã được Trung Quốc toan tính lâu dài và tổ chức thực hiện công phu để
có thể xuyên tạc lịch sử hàng ngàn năm từ cổ chí kim trong nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong phạm vi của bài viết này, chúng tôi chỉ có thể điểm ra một vài
trường hợp cụ thể như là một trong rất nhiều minh chứng cho những toan tính
trên của Trung Quốc.
Đảo
Đá Đông thuộc quần đảo Trường Sa, Việt Nam Các Sách Trắng về chủ quyền của
Trung Quốc tại hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa, cũng như một số tài liệu nghiên
cứu của các học giả Trung Quốc mà tiêu biểu là ông Hàn Chấn Hoa với cuốn “Tổng
hợp sử liệu các đảo Nam Hải của nước ta” (Trung Quốc -NV) đã đưa ra nhiều kết
luận “hùng hồn” rằng có rất nhiều “sự thật lịch sử”, trong đó có sự hiện diện
của các di chỉ khảo cổ, “chứng tỏ đầy đủ rằng” Trung Quốc là người đã phát
hiện, kinh doanh, khai thác và thực hiện việc cai quản đầu tiên các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa (mà họ gọi là Tây Sa và Nam Sa) từ “hàng nghìn năm nay”.
Thế
nhưng, đáng tiếc là các sử gia Trung Quốc thời cổ xưa lại chính là những nhà
chép sử có lòng tự trọng và nghiêm túc với chức trách. Các bộ Sử ký của nhiều
triều đại phong kiến Trung Quốc đã ghi lại hầu hết các sự kiện quan trọng với
nhiều chi tiết rõ ràng, nên khi đi vào từng vấn đề cụ thể, lập luận của Trung
Quốc ngày nay về chủ quyền của họ trên Biển Đông, trong đó có hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam cũng đã tỏ ra hết sức mâu thuẫn với bản thân
các tài liệu chính sử.
Xét
về mặt địa lý, Trung Quốc trích dẫn từ một số sách địa lý cổ xưa của họ có
những ghi nhận và mô tả về các đảo Hoàng Sa và Trường Sa để cho rằng họ phát
hiện và xác lập chủ quyền tại hai quần đảo này từ hàng ngàn năm qua.
Chẳng
hạn như cuốn Nam Châu Dị Vật Chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc 220-265) viết dưới
thời Hán Vũ Đế, có mô tả về các đảo đá và cát trên Biển Đông, có đoạn mô tả chỗ
nước nông và có đá nam châm khiến cho tàu thuyền qua lại nguy hiểm, dễ bị chìm.
Dị
Vật Chí của Dương Phù (đời Đông Hán, 25-220 sau CN) nói về những điều lạ của xứ
nước ngoài mô tả địa danh Trướng Hải như sau: “Tại Trướng Hải Kỳ Đầu nước cạn
nhưng nhiều đá nam châm, thuyền lớn đi ngoài cõi, dưới thuyền gắn lá sắt sẽ bị
nhổ ra”.
Chỉ
có vậy, thế nhưng các tài liệu gần đây của Trung Quốc lại “áp đặt” sự mô tả này
về Trướng Hải Kỳ Đầu cùng truyền thuyết về đá nam châm hút đinh sắt của các
thuyền có liên quan tới các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trong Biển Đông.
Cũng cần nhấn mạnh rằng, phần lớn các thư tịch cổ của Trung Quốc khi nói về đảo
và các bãi đá ngầm trên Biển Đông đều chép với rất nhiều tên gọi khác nhau.
Chẳng
hạn như trong cuốn Đông Tây Dương Khảo của Trương Nhiếp (1618), có nói đến các
đảo nằm cách huyện Văn Xương 100 dặm (khoảng 50km), điều này không thể phù hợp
về mặt địa lý với quần đảo Hoàng Sa (Paracels) nằm cách Hải Nam về phía nam đến
hơn 250km.
Tên
của các đảo này cũng được chép rất khác nhau tùy theo sự tưởng tượng của tác
giả như: Cửu Nhũ Loa Châu, Vạn Lý Thạch Đường, Thiên Lý Thạch Đường, Thất Châu
Dương, Thất Châu Sơn… Thật là khó có thể chấp nhận quan điểm của Trung Quốc khi
họ cứ khăng khăng cho rằng những đảo đó chính là quần đảo Hoàng Sa (Paracels)
hoặc có lẽ là Trường Sa (Spratleys).
Đôi
khi, sự khẳng định của họ không khỏi gây ra sự sửng sốt. Trong tài liệu “Các
biên giới của Trung Quốc” của Chu Kiện (1991), tác giả khẳng định “năm 1873,
Quách Tông Đào, Đại sứ đầu tiên của Trung Quốc được cử sang phương Tây, trong
nhật ký hành trình đã nhắc đến Nam Sa (Spratleys) thuộc về Trung Quốc”.
Thế
nhưng đoạn văn này lại được minh hoạ thêm bởi chú thích đề cập tới Hoàng Sa
(Paracels) và ghi chú đảo nằm ở vĩ độ 17 Bắc. Đây quả là sự lẫn lộn nghiêm
trọng và càng cho thấy sự cố tình gán ghép các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam vốn nằm phía nam vĩ tuyến 17 vào lãnh thổ Trung Quốc.
Các
tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu khác của họ.
Nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và phân định rõ lãnh thổ của đế chế Trung Hoa
khá trùng hợp nhau, các mô tả này đều định rõ lãnh thổ Trung Hoa có điểm tận
cùng ở phía nam là đảo Hải Nam.
Theo
hướng này, trong số các cuốn sách ở thế kỷ 12, rồi thế kỷ 17 và 18, trong đó
các cuốn Địa chí phủ Quỳnh Châu (tức đảo Hải Nam) cũng như cuốn Địa chí tỉnh
Quảng Đông năm 1731, cuốn sách dâng nộp vua Thanh năm thứ 9 đời Văn Chính
(1731), bản đồ tỉnh Quảng Đông không nói gì đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Trong
khi đó vào năm 1754, các dân binh hải đội Hoàng Sa của Việt Nam bị đắm thuyền
khi công tác trên quần đảo Hoàng Sa trôi dạt tới bờ biển Trung Quốc, nhà chức
trách Trung Quốc sau khi thẩm tra xong đã đưa họ về quê hương mà không có sự phản
kháng nào của Trung Quốc, chứng tỏ hoạt động của hải đội Hoàng Sa được Trung
Quốc thời đó ghi nhận là việc bình thường thực thi chủ quyền của Việt Nam tại
vùng biển này. Trong tất cả các tài liệu Trung Quốc đều nhắc lại rằng các ngư
dân Trung Quốc đã đến các đảo trên Biển Đông vào mọi thời kỳ.
Nhưng,
các tài liệu mà họ đưa ra chỉ cho thấy đó là những hành vi cá nhân, không mang
tính nhà nước, không phù hợp với một sự chiếm hữu cũng như với ý định khẳng
định chủ quyền lãnh thổ quốc gia bởi vì việc chiếm cứ “do các tư nhân không
hành động nhân danh chính phủ của họ mà thực hiện vì một lợi ích cá nhân không
tạo thành một sự chiếm hữu”, theo luật pháp quốc tế đương thời.
Hơn
nữa, cũng trong những thời kỳ này, chính các quần đảo đó thường được các ngư
dân Việt Nam lui tới. Trên thực tế, đã không có một chút dấu vết gì chứng tỏ là
Trung Quốc đã từng phản kháng lại sự khẳng định chủ quyền của Hoàng đế Gia Long
và các người kế nhiệm ông trong suốt cả thế kỷ 18 cũng như thế kỷ 19, khi các
chúa Nguyễn của Việt Nam tổ chức việc khai thác các đảo nằm dưới quyền tài phán
của họ một cách mạnh mẽ và liên tục.
Chúng
ta có thể tìm thấy trong các văn tập lịch sử Trung Quốc những lời xác nhận sự
không tồn tại tham vọng về các đảo trên Biển Đông của Trung Quốc trong lịch sử.
Như
vậy, có thể thấy rằng Trung Quốc chưa bao giờ có việc thực thi chủ quyền mang
tính nhà nước đối với các quần đảo này suốt lịch sử cho tới đầu thế kỷ 20. Sự
thờ ơ của Trung Quốc đối với các quần đảo trên Biển Đông đã được hai tài liệu
xác nhận: bản đồ Trung Hoa của đế chế thống nhất Hoàng Triều Nhất Thống Dư Địa
Tổng Đồ, phát hành vào năm 1894, lãnh thổ Trung Quốc trong đó chỉ mở rộng tới
đảo Hải Nam.
Ngoài
ra, quyển “Trung Quốc Địa Lý Học Giáo Khoa Thư”, phát hành năm 1906 nêu ở trang
241 rằng “điểm cực nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu, đảo Quỳnh Châu, ở
vĩ tuyến 18°13′ Bắc”.
Sự
chính xác và rõ ràng của các luận chứng khẳng định chủ quyền lâu đời, liên tục
của Việt Nam bằng những hành động cụ thể của người Việt theo lệnh của triều
đình từ thế kỷ 18, khiến Trung Quốc phải phản bác lại là các vua chúa Việt Nam
luôn chỉ hoạt động nhằm phục vụ Hoàng đế Trung Hoa. Điều này lại càng phi lý.
Vương quốc Việt Nam (Đại Cồ Việt) được thành lập vào thế kỷ 11 bằng việc thiết
lập một quyền lực chính trị và một nền cai trị độc lập đối với Trung Quốc,
nhưng đồng thời công nhận một cách khéo léo quyền bá chủ của Trung Quốc.
Mối
quan hệ chư hầu này khó xác định theo một quan điểm pháp lý bởi vì nội dung của
nó mơ hồ và tăng giảm tùy theo các thời kỳ. Trong lịch sử bang giao Đại Việt –
Trung Hoa, các triều đại Việt Nam cần lễ thụ phong của Trung Quốc để được công
nhận, giống như mọi quốc gia hiện đại muốn đứng vững thì không thể bỏ qua sự
công nhận quốc tế. Đối với Trung Quốc, cống nạp thể hiện sự phụ thuộc tối đa mà
họ hy vọng.
Ngược
lại, đối với Đại Việt, cống nạp thể hiện sự độc lập tối đa mà vương quốc này có
thể đạt tới mà không gây nên phản ứng đế quốc từ phía Trung Quốc. Chế độ chư
hầu được Việt Nam chấp nhận trên danh nghĩa, dưới hình thức triều cống danh dự.
Nhưng nghĩa vụ tôn kính của triều đình Việt Nam đối với “Thiên triều” là hoàn
toàn hình thức.
Lịch
sử các quan hệ Trung-Việt từ khi thành lập nước Việt Nam, thoát ra khỏi sự chi
phối của Trung Quốc, đã được đánh dấu bằng nhiều mưu toan quân sự của Trung Quốc
chống lại Việt Nam. Sau khi đã chiến thắng, các vua Việt Nam không bao giờ quên
việc tìm cách xoa dịu người láng giềng khổng lồ của mình bằng một sự thần phục
tượng trưng. Từ đó cho thấy lập luận của Trung Quốc đưa ra từ quan hệ chư hầu
để mập mờ đòi hỏi yêu sách chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam là không hề có giá
trị pháp lý.
Trung
Quốc cũng sử dụng một số báo cáo về khảo cổ học để cho rằng họ có chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, không có một kiểm chứng
khoa học khách quan nào cho thấy những di vật cổ xưa nói là được tìm thấy trên
các quần đảo này là của người Trung Quốc. Hơn nữa, theo giới chuyên môn, giả sử
“các di chỉ khảo cổ” mà Trung Quốc cho là phát hiện tại hai quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa của Việt Nam đúng là của người Trung Quốc đi chăng nữa, thì theo
luật pháp quốc tế, cũng không có ý nghĩa trong việc xác lập chủ quyền lãnh thổ
tại đây.
Là
một ngành khoa học, khảo cổ học và những di chỉ khảo cổ không có vai trò quyết
định trong việc công nhận hay bác bỏ chủ quyền của một quốc gia trên một vùng
lãnh thổ nơi các di chỉ khảo cổ hiện diện.
Việc
Trung Quốc coi các “di chỉ khảo cổ” nói là tìm thấy ở quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa để kết luận “hàng loạt tư liệu văn vật này chứng minh một cách hùng
hồn rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa từ cổ xưa là lãnh thổ của
Trung Quốc” là một kết luận mang tính suy diễn, không có cơ sở khoa học, lịch
sử và pháp lý quốc tế.
Cái
gọi là những “di chỉ khảo cổ” của Trung Quốc chỉ là sự bịa đặt cố ý nhằm phục
vụ cho mưu đồ chính trị, không làm thay đổi được thực tế là hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa đã thuộc chủ quyền lãnh thổ Việt Nam từ rất lâu đời và người
Việt Nam đã thực thi quyền chủ quyền của mình liên tục trên hai quần đảo này
cho tới nay.
Đăng nhận xét