Gần đây, một số chức sắc tôn giáo ở Việt Nam, đặc biệt là Công giáo (Kito) đã lợi dụng thần quyền để công kích, bôi nhọ chế độ và lãnh tụ, xuyên tạc lịch sử dân tộc, xúi giục giáo dân làm loạn, gây ảnh hưởng rất xấu tới ANTT và ảnh hưởng chính tới bộ mặt của tôn giáo. Với chính sách tự do tôn giáo cởi mở, chính quyền Việt Nam đã hết sức nhẫn nhịn, dù dư luận nhân dân rất phẫn nộ đòi hỏi phải thực thi các biện pháp cứng rắn theo quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, khi một số vị chức sắc trong số đó bị chính Giáo hội và cha bề trên xử lý (điển hình là việc linh mục Nguyễn Duy Tân bị bề trên trục xuất), những kẻ cực đoan trong tôn giáo lại lớn tiếng đổ lỗi, vu cáo cho chính quyền Việt Nam là “can thiệp, mất dân chủ, đàn áp tôn giáo” một cách vô căn cứ.

Trong bối cảnh đó, những thế lực thù địch chống phá trên lĩnh vực tư tưởng lập tức hướng mũi nhọn công kích, xuyên tạc chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Đảng - Nhà nước Việt Nam về công tác tôn giáo. Mặt khác, một số người do phẫn nộ lại chưa hiểu rõ mà dùng câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” khi nêu ý kiến về tôn giáo, điều này rất dễ bị kẻ thù lợi dụng để kích động là chúng ta phỉ báng, chống phá tôn giáo.
Vậy thực chất nhận xét này của Marx có ý nghĩa như thế nào?


Câu nói trên đã bị cắt khỏi bài viết và hoàn cảnh lịch sử của nó, thực tế câu “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” chỉ là một ý được trình bày ở trong lời nói đầu của tác phẩm “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegels” (1844). Vì vậy có thể thấy nội dung tác phẩm này của Marx là phê phán triết học pháp quyền Hegels chứ không phải là phê phán tôn giáo. Đoạn văn như sau:

“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân. Xóa bỏ tôn giáo, với tính cách là xóa bỏ hạnh phúc ảo tưởng của nhân dân, là yêu cầu thực hiện hạnh phúc thực sự của nhân dân. Yêu cầu từ bỏ những ảo tưởng về tình cảnh của mình cũng là yêu cầu từ bỏ cái tình cảnh đang cần có ảo tưởng. Do đó, việc phê phán tôn giáo là hình thức manh nha của sự phê phán cuộc sống khổ ải mà tôn giáo là vòng hào quang thần thánh của nó”.

Ở câu này, Marx đã vận dụng phép biện chứng để phản ánh hiện thực xã hội cũng như phản ánh sự thoái hóa của Tôn giáo. Trong một xã hội TBCN đầy rẫy những áp bức bóc lột bất công, nhân dân lao động không thể tìm thấy một cuộc sống dù chỉ tạm đủ. Đối với họ, việc lo cho đủ ba bữa ăn trong một ngày là quan trọng hơn bất cứ việc nào khác. Cũng như vậy, người dân lao động hàng ngày phải lao động từ 12-14 tiếng trong công xưởng, thậm chí là 18-20 tiếng thì họ không thể có một đời sống tinh thần thực sự.

Với sự bóc lột lao động đến mức cùng cực và kiệt quệ như vậy thì đời sống tinh thần của người dân cũng ngày càng nghèo nàn hơn. Karl Marx đã từng mô tả, cuộc sống của giai cấp vô sản dường như chỉ quay xung quanh việc lao động, ăn, ngủ và duy trì nòi giống. Ngoài 4 việc đó ra thì giai cấp vô sản dường như chẳng còn một tý chút thời gian dư dả nào cả, vậy nên chính vì thế đời sống tôn giáo của họ cũng nghèo nàn như vậy. Con người ta chỉ chăm lo cho bữa ăn nhiều hơn là tuân theo những chuẩn mực đạo đức của tôn giáo, bởi lẽ trong nhận thức của họ thì bữa ăn là cái cần thiết tối thiểu còn không đủ thì làm sao có thể học theo những chuẩn mực đạo đức hay giáo lý tôn giáo.

Vì vậy sự nghèo nàn của tôn giáo chỉ quay lại một niềm tin cảm tính duy nhất, đó là tin vào Đấng toàn năng năng những mong Đấng toàn năng sẽ phù hộ, thậm chí người dân còn chẳng thể nhận thức được Đấng toàn năng là ai, và dạy cho những gì, bởi nhân dân lao động chẳng thể quan tâm đến nó là gì, và nó có gì. Sự nghèo nàn ấy của tôn giáo cũng chính là sự nghèo nàn thực tế của xã hội, nhưng lại là sự phản kháng chống lại chính cái nghèo nàn ấy.

Nhân dân lao động đã mất hết niềm tin, họ cảm thấy xã hội chỉ toàn những áp bức và bất công, nhưng họ không tìm được cách giải quyết cho sự khổ đau về mặt vật chất, vậy nên họ tìm đến tôn giáo như một liều thuốc giảm đau, giúp tạm thời quên đi những nỗi đau hàng ngày đang phải đối diện. Vậy nên Marx khẳng định, tôn giáo chính là “tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức”, là cách để họ tạm thời lấy lại được sự sống sau những giờ lao động mệt mỏi và căng thẳng. Cũng đồng thời đó là “trái tim của thế giới không có trái tim, là tinh thần của trật tự không có tinh thần” - ở đây, chính là Marx đề cao tôn giáo chứ không hề phỉ báng tôn giáo.

Tại sao lại như vậy, bởi lẽ nếu không có tôn giáo thì thật sự nhân dân lao động sẽ không còn là con người, họ sẽ biến thành những con rô bốt không có trái tim. Trong xã hội đó, một xã hội mà đời sống tinh thần nghèo nàn nhất thì tôn giáo lại món ăn tinh thần duy nhất, bởi vậy mới là “tinh thần của trật tự không có tinh thần”. Có thể nói ở tôn giáo, con người lao động mới tìm thấy được phần người ít ỏi còn sót lại ở trong cuộc sống của họ, để họ hiểu rằng họ không phải là những cỗ máy vô cảm, mà họ là con người, họ có tình cảm, có lý trí và có cả sự nhận thức. Những điều mà một con rô bốt không thể tìm thấy trên băng chuyền sản xuất.

Đến đây, Karl Marx mới đưa ra kết luận nổi tiếng: “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Có thể thấy mâu thuẫn của vấn đề đã được đưa lên đến đỉnh điểm, dường như nhiều người chỉ nghe câu nói này sẽ nghĩ ngay đến Marx đang ám chỉ tôn giáo là một thứ tiêu cực, gây tổn hại đến nhân dân và cần phải xóa bỏ. Hoặc theo một hình tượng khác thì tôn giáo là tiêu cực của xã hội cũng giống như thuốc phiện vậy. Nhưng thực chất thì không phải như thế.

Ai cũng biết rằng, tình cảnh giai cấp lao động thời của Karl Marx là vô cùng khốn khổ. Vậy nên khi ví tôn giáo là thứ gây nghiện thì thực chất Marx muốn ám chỉ rằng vào thời đó là lúc mà con người còn cảm thấy họ là chính con người và họ có thể tìm được bản thân mình ở những thú vui tình thần còn lại duy nhất này mà không phải là máy móc hay con vật. Mặt khác, trong điều kiện nghèo nàn vật chất thì thời của Marx người công nhân và nhân dân lao động còn không có được những điều kiện chăm sóc y tế tối thiểu. Chính vì vậy nên họ tìm đến “laudanum” là một loại cồn thuốc phiện. Cồn thuốc phiện ở thế kỷ 19 được dùng như một thứ “thuốc chữa bách bệnh”, từ bệnh tiêu chảy, ho, cảm cho đến bệnh đau xương, đau khớp. Thực chất cồn thuốc phiện không hề chữa bệnh mà chỉ giúp cho xoa dịu đi những nỗi đau đớn vì bệnh tật của con người.

Từ quan sát thực tế, Marx khẳng định loại cồn thuốc phiện đó là có tác dụng, nhưng nó không phải là thuốc, vì vậy nó không giải quyết được bệnh trạng của con người và con người vẫn phải chịu bệnh trạng như vậy, cuối cùng vẫn chết, có chăng chỉ là sự đau đớn giảm đi mà thôi. Cũng như vậy, tôn giáo là liều thuốc giảm đau hữu hiệu đối với những đau khổ của giai cấp vô sản thời bấy giờ, là món ăn tinh thần an ủi nhân dân lao động. Nhưng nó không thể giải quyết được sự đau khổ mà chỉ giúp người ta giảm bớt nỗi đau khổ với một niềm tin cảm tính còn lại duy nhất vào các đấng toàn năng sẽ cứu vớt linh hồn họ (tôn giáo lúc đó cũng nghèo nàn như chính tác dụng chữa bệnh của cồn thuốc phiện vậy). 

Vậy nên và như vậy con người vẫn phải đối mặt với những đau khổ đó và muốn giải quyết nỗi đau đó thì không gì hơn là phải tìm lại chính mình, tìm lại được bản thân con người, đưa một hiện thực ảo tưởng thành một hiện thực thực sự dù nó không có thực thể. Cũng giống như một người bệnh không thể dùng mãi cồn thuốc phiện mà phải đứng lên để tự đi khám để biết được bệnh của mình và tìm ra loại thuốc có thể chữa bệnh cho chính mình. Không ai có thể làm thay họ việc đó, kể cả bác sĩ, bởi nếu bệnh nhân không chịu khám thì bác sĩ mãi mãi chẳng thể cho họ biết họ mắc bệnh gì và cần dùng thuốc gì.

Như vậy, rõ ràng là Marx không hề phê phán tôn giáo là thứ hại nhân dân, trái lại ông đang mô tả thực sự đó là liều thuốc tinh thần còn lại duy nhất để giúp người dân tìm lại được chính họ còn là con người trong một xã hội vốn không có tình người, là liều thuốc giảm đau duy nhất đối với những đau khổ mà nhân dân lao động đang phải gánh chịu trong xã hội tư bản.

Sự phê phán ở đây của Marx là mong “loài người vứt bỏ những xiềng xích là các bông hoa giả trang điểm cho chúng, để loài người không phải tiếp tục mang những xiềng xích ấy, mà tìm đến để hái lấy bông hoa thật, tự thoát khỏi ảo tưởng, để con người suy nghĩ, hành động, xây dựng tính hiện thực của mình, để con người xoay quanh bản thân mình và cái mặt trời thật sự của mình. Còn tôn giáo chỉ là mặt trời ảo tưởng khi mà con người chưa tìm ra được chính bản thân mình”.

Karl Marx đã chỉ ra việc phê phán tôn giáo không phải là xóa bỏ tôn giáo. Bởi cái xiềng xích lớn nhất trói buộc con người chính là chủ nghĩa tư bản và hiện thức bóc lột nặng nề, cái bông hoa giả chính là những nhận thức tôn giáo ngay tại nước Đức thời bấy giờ. Nhận thức tôn giáo mang tính lầm lạc và cứu rỗi con người về mặt tinh thần nhưng không thể nào cứu rỗi chính bản thân con người đó. Đó chính là hiện thực của các nước Châu Âu thế kỷ 19 khi mà tôn giáo chỉ còn là cái vỏ bọc để bảo vệ cho chế độ bóc lột của CNTB, tôn giáo mất đi cái bản chất giáo dục nhân cách của con người và chỉ còn là những hiện tượng tinh thần mang tính ảo tưởng. Nhiệm vụ của việc phê phán tôn giáo là bản thân con người phải vứt bỏ những lầm lạc ảo tưởng mà các tôn giáo sử dụng để con người quên đi những nỗi đau khổ thực tại mà họ đang phải đối mặt. 

Đồng thời Marx cũng nhấn mạnh rằng con người phải bỏ đi những bông hoa giả và lấy những bông hoa thực, những bông hoa đẹp đẽ là hình ảnh ẩn dụ của tôn giáo, vậy việc phê phán tôn giáo chính là bỏ đi tôn giáo ảo tưởng để đi đến tôn giáo thực tại. Các tôn giáo thường nói về thiên đường, đó là chỉ cần con người nghe lời chúa thì họ sẽ được lên thiên đường và đó là điều mà nhà thờ đã và đang dạy họ. Nhưng để làm cụ thể như thế nào mới được lên thiên đường thì nhà thờ lại không chỉ ra cho họ. Chính vì vậy thiên đường mãi mãi là ảo tưởng và bản thân người dân lao động vẫn hàng ngày sống cảnh nghèo nàn, thất học, đói kém. Họ không dám và không thể tự xây dựng ước mơ cho chính mình. Và nhiệm vụ lấy được bông hoa thật là phải đưa tôn giáo trở về tôn chỉ thực sự với ý nghĩa là giáo dục nhân cách đạo đức cho con người.

Vậy làm cách nào để có thể có được sự cứu rỗi thật sự? Điều mà Marx chỉ ra, liều thuốc thực sự cho xã hội chính là sự tự ý thức của con người. Con người sẽ dần phải xóa bỏ những niềm tin cảm tính của mình để xây dựng một con người hiện thực, con người với niềm tin lý tính. Đây chính là điểm quan trọng nhất mà Marx muốn nói đến, nhưng nó đã bị rất nhiều người vô tình hoặc cố ý hiểu sai.

Sự khác biệt giữa niềm tin cảm tính và niềm tin lý tính đó là cảm xúc trong niềm tin, một niềm tin lý tính là niềm tin vào lý luận và thực tiễn mà không bị tác động của cảm xúc yêu hay ghét, đó là niềm tìn vào lẽ phải theo đúng hiện thực của nó, theo những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội chứ không phải một niềm tin cảm tính tức một niềm tin mù quáng không có cơ sở.

Tuy nhiên, niềm tin cảm tính thực tế lại là căn bệnh cố hữu của đa phần mọi người trong xã hội. Họ không cần phải có thực tiễn và lý luận, họ tin theo chỉ vì họ có cảm tình với nó. Và điểm khác biệt mấu chốt là niềm tin cảm tính thì thay đổi theo thời gian vì nó phụ thuộc vào trạng thái cảm xúc của con người rất thất thường. Còn niềm tin lý tính không có sự thay đổi bởi nó gắn chặt vào những quy luật vận động của tự nhiên và xã hội. Niềm tin lý tính gọi một cách đơn giản là niềm tin thuận theo quy luật tự nhiên và để nhận thức được các quy luật tự nhiên thì lại đỏi hỏi con người phải có một tư duy lí tính, để loại bỏ tất cả những yếu tố gây nhiễu trong tư duy của họ, tức con người phải là con người lý tính.

Điểm biện chứng hay nhất của Marx ở đây nằm ở chỗ thay thế niềm tin cảm tính bằng niềm tin lý tính. Nói một cách đơn giản: hãy làm theo điều Chúa dạy để sống và nhận thức như Chúa, thay vì tin vào những điều ảo tưởng mà nhà thờ thời bấy giờ vẽ ra như một công cụ chính trị để hạn chế nhận thức của nhân dân lao động, biến họ trở nên mù quáng và không có lý tính. Đây là điểm mà nhiều chức sắc tôn giáo thiếu đạo đức lợi dụng nhà thờ để dẫn dụ, đã và đang tẩy não con người. Tư tưởng của họ rao giảng không còn là tư tưởng của Chúa nữa, mà là tư tưởng của chính giới tăng lữ muốn ăn trên ngồi trốc thống trị xã hội.
Những sự tha hóa trong nhà thờ đã và đang phá hủy tôn giáo thực sự mà biến nó trở thành những hình ảnh tôn giáo mà thôi. Giáo dân luôn tin tưởng vào Chúa nhưng họ không biết phải làm thế nào để có được hạnh phúc mà Chúa đã dậy, còn nhà thờ và giới tăng lữ luôn cố gắng nhồi nhét vào đầu của giáo dân những tư tưởng họ bảo là của Chúa, nhưng thực chất họ lại không hề tin vào Chúa. 

Thấm nhuần chủ nghĩa Marx, những người lãnh đạo cộng sản luôn có quan điểm và thái độ đúng mực đối với các tôn giáo, đó là:

+ Luôn tôn trọng niềm tin tôn giáo của người dân.
Dù đây đó vẫn có những quan điểm tả khuynh và cực đoan, do nhận thức Marx chưa sâu sắc hoặc chính do xuất phát từ sự cố tình chống đối từ những thế lực thù địch núp bóng giáo hội, song quan điểm nhất quán của Đảng cộng sản Việt Nam vẫn là:

- Thứ nhất: Tôn trọng niềm tin tôn giáo của nhân dân như một sự thật đang tồn tại và là quy luật chung của xã hội. Cũng như Marx từng khẳng định ý thức xã hội không thể vượt qua tồn tại xã hội. Những người theo tôn giáo là vì niềm tin của họ thực sự được xây dựng từ chính điều kiện hoàn cảnh sống của họ, ngay từ lúc sinh ra cho tới lúc mất đi, gần như hoàn cảnh sống của họ đã gắn liền với tôn giáo, gắn liền với cha mẹ và họ hàng của họ. Đây là điều không thể tránh khỏi và gần như rất khó để thay đổi.

- Thứ hai: Để xóa bỏ niềm tin cảm tính hoang đường của những người theo tôn giáo thì phải xây dựng niềm tin lý tính cho họ. Điều này đỏi hỏi một quá trình giáo dục lâu dài và gắn liền với thực tế hoạt động tôn giáo. Bản thân Marx không bao giờ có luận điểm rằng những người cộng sản thì không theo tôn giáo, vậy nên chính những người cộng sản, những người đang có một niềm tin lý tính thật sự phải đi sâu tìm hiểu đến từng tôn giáo gắn liền với đời sống của nhân dân. Có như vậy mới có thể thực hiện việc giáo dục người dân mà không hề xóa bỏ niềm tin của họ, chỉ là chuyển đổi niềm tin từ cảm tính sang lý tính mà thôi.
+ Cần có phương pháp điều chỉnh cân bằng giữa tôn giáo và khoa học. 
Có một thực tế vẫn đang diễn ra, đó là sự đối lập sâu sắc giữa tôn giáo và khoa học. Thế kỉ 21 là thế kỷ KHKT phát triển mạnh mẽ, phần nào cũng khiến cho trào lưu nghi ngờ và bài xích tôn giáo gia tăng. Tuy vậy, dù KHKT phát triển đến đâu thì vẫn có những điều không thể giải thích, chính vì vậy con người ta vẫn sẽ tìm đến tôn giáo để tìm cách giải thích về các sự vật hiện tượng mà KHKT chưa giải thích được.
Vậy nên, không thể dùng khoa học để phủ định sạch trơn tôn giáo mà phải biết rằng tôn giáo và khoa học là hai mặt đối lập nhau của một thể thống nhất, luôn đấu tranh và thống nhất với nhau, nếu tuyệt đối hoá khoa học thì vô hình chung lại sinh ra một thứ tôn giáo mới: tôn giáo khoa học.
Tóm lại, câu nói “Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” của Marx hoàn toàn không mang hàm ý bài trừ tôn giáo, cái mà ông phê phán ở đây là những ảo tưởng sinh ra từ hình thức tôn giáo. Những ảo tưởng này theo Marx có thể xoa dịu những nối thống khổ của nhân dân lao động nhưng không thể giải quyết triệt để được những nỗi thống khổ. Muốn giải quyết những khổ đau thì phải chính do người dân tự thực hiện, thoát ra khỏi hạnh phúc ảo tưởng để đem lại hạnh phúc thực sự cho chính mình thông qua việc phê phán những sự hoang đường do những kẻ đội lốt tôn giáo tạo ra nhằm khống chế, khai thác người dân.

Đăng nhận xét

 
Top