Ngày 24/4/2020, trên nick facebook chính danh Nguyễn Huy
Viện có bài viết về ngày 30 tháng tư với tiêu đề "Có nên khơi lại nỗi đau
chiến tranh?" rất phản cảm, thậm chí có yếu tố phản động, thể hiện tự
chuyển hóa về nhận thức chính trị.
Ông Nguyễn
Huy Viện nguyên là đại tá về hưu, nguyên là Bí thư Đảng ủy, chính trị viên của
hệ đào tạo sau đại học của một học viện Quân đội danh giá, nhưng ông ta viết
bài có quá nhiều cái sai, hoặc ông ta, dù được đào tạo, học hành bài bản ngành
chính trị nhưng lại nhận thức chưa chín, hoặc có thể trong quá trình học tập,
ông do không chịu học nên dốt đặc, hoặc ông ta không dốt, mà sau khi ăn no cơm áo
của dân, của Đảng, của Quân đội, về hưu nhàn cư vi bất thiện, chơi bời với đám
dân chủ cuội nên hư hỏng, đổ đốn, suy thoái tư tưởng chính trị .
Tại một số bài viết ông Viện viết rất phản cảm, phản
động. Ông Viện viết rằng: "Khi chế độ VNCH được Hiệp định Geneve và Hiệp
định Paris thừa nhận là chính quyền hợp pháp và Nhà nước ta cũng thừa nhận khi
đã ký các hiệp định này. Tuy nhiên, trong tuyên truyền vẫn dùng các danh từ
Ngụy quân, Ngụy quyền để miệt thị, hạ nhục những đồng bào của mình ở bên kia
chiến tuyến thì thử hỏi làm sao hàn gắn được vết thương chiến tranh trong lòng
dân tộc".
Đối với vấn đề này thì ông Viện phạm vào 2 cái lỗi rất cơ bản, thể hiện ngu dốt về lịch sử, về nhận thức chính trị, và thể hiện sự xảo trá, lươn lẹo, vô liêm sĩ.
Đối với vấn đề này thì ông Viện phạm vào 2 cái lỗi rất cơ bản, thể hiện ngu dốt về lịch sử, về nhận thức chính trị, và thể hiện sự xảo trá, lươn lẹo, vô liêm sĩ.
LỖI THỨ
NHẤT, ông ta viết mà ông ta cố tình hoặc không có kiến thức, cũng chẳng chịu
đọc, tìm hiểu về cái gọi là VNCH liên quan thế nào trong 2 bản hiệp định (Hiệp
định Geneves và Hiệp định Paris). Ông ta bị mấy kẻ lật sử, bọn ngụy quân, ngụy
quyền nhồi sọ nên nói xằng bậy. Cả hai hiệp định này chẳng có cái nào chứng
minh tính hợp pháp của cái gọi là “chính quyền” hay “quốc gia VNCH” cả:
(a) Với
cái gọi là “Quốc gia Việt Nam” của Bảo Đại và “VNCH” của Diệm trong Hiệp định
Geneve 1954: Năm 1945, sau thời gian làm tay sai cho thực dân Pháp đàn áp phong
trào cách mạng của nhân dân. Trong cách mạng tháng Tám năm 1945, lực lượng cách
mạng Việt Minh đã dành lại chính quyền từ tay Nhật - Pháp về tay Nhân dân, lập
ra nước VNDCCH, Bảo Đại đã thoái vị và bàn giao quyền điều lãnh đạo đất nước
cho chính quyền VNDCCH, Bảo đại trở thành công dân Vĩnh Thụy, ông ta còn tuyên
bố: “Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ.”. Tuy
nhiên, với bản chất làm tay sai, sau khi phản bội lại chính phủ VNDCCH, năm
1949, Bảo Đại được tổng thống pháp gặp gỡ, thỏa thận và hỗ trợ Bảo Đại lập ra
cái gọi là Quốc Gia Việt Nam thuộc khối liên hiệp thuộc Pháp ở Đông Dương nhằm
phục vụ mục đích tái chiếm Việt Nam của Pháp. Tuy thành lập cái gọi là quốc gia
Việt Nam, nhưng các quyền quan trọng về quân sự và ngoại giao đều bị người Pháp
chi phối và quyền hành cao nhất trên thực tế là Cao ủy Pháp, Quốc gia Việt Nam
chỉ là con cờ chính trị, là tay sai của Pháp xâm lược Việt Nam. Phản ứng trước
hành động của Pháp và Bảo Đại, Chính phủ VNDCCH tuyên bố với thế giới chỉ có
Chính phủ VNDCCH là chính phủ hợp pháp duy nhất của toàn thể nhân dân Việt Nam,
còn chính phủ do Bảo Đại thành lập là bất hợp pháp bởi nó được Pháp dựng nên mà
không thông qua bầu cử toàn dân. Đồng thời Bảo Đại đã bị Chính phủ VNDCCH xét
xử tội phản quốc. Tìm hiểu đến đây, chúng ta có thể khẳng định, Sau khi thoái
vị, Bảo Đại là một công dân, bỏ đất nước chạy trốn ra nước ngoài, là phạm nhân
mang tội phản quốc, nên ông ta không có tư cách pháp lý để thay mặt đất nước
thỏa hiệp với Pháp. Hơn nữa, sau khi Pháp thua cuộc tại Điện Biên Phủ, Pháp và
VNDCCH đã đàm phán và ký Hiệp định Geneve mà chẳng cần tham khảo ý kiến của
“Quốc gia Việt Nam”. Theo thỏa thuận của Hiệp định Geneve 1954, đình chỉ chiến
sự, tạm thời chia Việt Nam thành hai phần cho hai lực lượng Việt Minh và Liên
hiệp Pháp, lấy vĩ tuyến 17 (dọc sông Bến Hải) làm giới tuyến quân sự tạm thời
(chứ không phải là biên giới quốc gia). Miền Bắc do lực lượng Quân đội Nhân dân
Việt Nam kiểm soát, miền Nam do lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (thực chất là
quân đội Pháp) kiểm soát. Cũng theo điều khoản của Hiệp định Geneve, quân đội
Pháp rút dần về nước, chấm dứt xâm lược Việt Nam. Cũng theo điều khoản của Hiệp
định xác định trong 2 năm sẽ tổng tuyển cử (vào năm 1956). Tuy nhiên, Mỹ thay
Pháp nhảy vào Việt Nam, Mỹ cũng nhìn thấy, với uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
người Mỹ luôn tin rằng: nếu tổng tuyển cử trên cả nước diễn ra, phần thắng
thuộc về Hồ Chí Minh khoảng 80%. Chính lúc đó, CIA đã "tìm thấy" Ngô
Đình Diệm và dựng lên làm bù nhìn. Theo kịch bản của Mỹ - Diệm, năm 1955, sau
khi phế truất Bảo Đại, Ngô Đình Diệm tuyên bố sẽ không có hiệp thương tổng
tuyển cử nào cả, trắng trợn vi phạm hiệp định Geneve 1954, mưu đồ chia cắt nước
ta vĩnh viễn. Như vậy, VNCH đệ nhất của Diệm là do Mỹ dựng lên, làm công cụ tay
sai trong chiến lược xâm lược Việt Nam của Mỹ. Từ cứ liệu lịch sử như trên, cả
cái gọi là Quốc gia Việt Nam hay VNCH đệ nhất của Diệm đều không bị ràng buộc,
không phải là đối tượng chính được nêu lên trong Hiệp định Geneve, hay nói đúng
hơn Hiệp Định Gieneve không công nhận Quốc gia Việt Nam hay VNCH đệ nhất của
Diệm là chính quyền hợp pháp của nước Việt Nam.
(b) Đối
với Hiệp định Paris 1973, càng không có cơ sở pháp lý công nhận VNCH là một
chính quyền hợp pháp. Bởi: Trước 1972, các cuộc đàm phán gồm 4 bên. Nhưng Chiến
dịch Mậu Thân 1968 và đặc biệt khi quân và dân Việt Nam làm gỏi xong bầy B52
trên bầu trời miền Bắc năm 1972 thì Mỹ ko còn lựa chọn khác là phải tự nguyện
ngồi vào bàn đàm phán chấm dứt chiến tranh với VN. Trên thực tế là chỉ VNDCCH
đàm phán với Hoa Kỳ. Chiến thuật vừa đánh vừa đàm và triển khai mặt trận ngoại
giao rất bản lĩnh và đầy trí tuệ đã tạo ra thế chủ động của VNDCCH. Đàm phán
với ai, nội dung đàm phán là gì thì đều do người nắm thế chủ động quyết định
chứ Mỹ chỉ được phép ra điều kiện trong thế cửa dưới. Còn ngụy quyền SG hay cái
gọi là “VNCH” không phải là đối tượng được tham gia đàm phán mà chỉ là một bên
liên quan đến cuộc chiến, phải thực thi nội dung HĐ nếu HĐ được thông qua và ký
kết.
Đàm phán
HĐ PR1973 là quá trình diễn ra giữa Nhà nước VNDCCH với Hoa Kỳ, chỉ hai chủ thể
đó thôi. Từ 02/01 đến 14/01/1973 giữa đã có 23 cuộc mật đàm giữa VNDCCH với Hoa
Kỳ (không có ngụy quyền SG tham gia). Ngày 23-1-1973, Henry Kissinger nhận được
chỉ thị của Nixon chấp nhận ký Hiệp định Paris VÔ ĐIỀU KIỆN. Cùng ngày, cuộc
mật đàm cuối cùng giữa hai trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Hoa Kỳ
diễn ra. Tại cuộc mật đàm thứ 24 này, các thủ tục về thể thức ký, nội dung Hiệp
định được thống nhất, đồng thời hai bên xác định ngày 27-01-1973 sẽ là ngày ký
chính thức Hiệp định Paris giữa bốn bên. Cuối cùng đại diện phía Việt Nam, cố
vấn Lê Đức Thọ và đại diện Hoa Kỳ, Henry Kissinger đã cùng ký tắt vào bản văn
Hiệp định. VỀ MẶT LOGIC, thì nội dung ký tắt giữa đại diện phía Việt Nam, cố
vấn Lê Đức Thọ và đại diện Hoa Kỳ, Henry Kissinger đã cùng ký tắt vào bản văn
Hiệp định là chốt nội dung và ý chí của mỗi bên cho HĐ PR1973, còn phiên ký 4
bên ngày 27/1/1973 chỉ là hình thức nữa mà thôi.
Trong thời
gian đó, từ ngày 5 đến 11/01/1973, Nixon đã gửi 8 bức điện mật yêu cầu Nguyễn
Văn Thiệu cử người đi Paris chuẩn bị ký Hiệp định. Hãy nhớ là Mỹ yêu cầu Thiệu
phải tham gia ký. Vì biết tính phản trắc của đứa con do Mỹ dựng lên nên trong
các bức điện đó, Nixon bảo đảm với Nguyễn Văn Thiệu rằng Hoa Kỳ đơn phương công
nhận “chính quyển Sài Gòn” là “chính phủ hợp pháp duy nhất” ở miền Nam Việt
Nam. Nhưng Nixon cũng nói rõ sự đảm bảo này không thể ghi vào Hiệp định (vì
VNDCCH ko đồng ý điều đó). Để chứng tỏ sự bảo đảm này, Nixon tiếp tục duy trì
hành động ném bom miền Bắc Việt Nam cho đến ngày 16-1-1973 - hai ngày trước khi
diễn ra phiên họp cuối cùng của Hội nghị Paris về Việt Nam.
Có một câu hỏi rất hay ở đây là tại sao Mỹ ép buộc ngụy quyền SG phải tham gia ký kết HĐ? Đơn giản thôi, nhìn vào chiều hướng của cuộc chiến và mục đích đàm phán đi đến ký kết HĐ của Mỹ thì thấy, Mỹ muốn rút quân an toàn và rút trong thể diện được bảo đảm, không chỉ VNDCCH bảo đảm cho Mỹ điều đó mà Mỹ cũng không muốn “VNCH” cản trở điều đó (vì có thể chó cùng đường quay lại cắn chủ). Vì vậy Mỹ phải ép buộc “VNCH” phải tham gia ký HĐ như là một bên liên quan để bắt buộc “VNCH” phải chấp hành nội dung HĐ. Đến đây, ta đã hiểu là chữ ký của VNCH trong HĐ chỉ là với tư cách một bên liên quan chứ không thể là một bên có tư cách như một nhà nước hay một quốc gia quan trọng của Hiệp định.
Có một câu hỏi rất hay ở đây là tại sao Mỹ ép buộc ngụy quyền SG phải tham gia ký kết HĐ? Đơn giản thôi, nhìn vào chiều hướng của cuộc chiến và mục đích đàm phán đi đến ký kết HĐ của Mỹ thì thấy, Mỹ muốn rút quân an toàn và rút trong thể diện được bảo đảm, không chỉ VNDCCH bảo đảm cho Mỹ điều đó mà Mỹ cũng không muốn “VNCH” cản trở điều đó (vì có thể chó cùng đường quay lại cắn chủ). Vì vậy Mỹ phải ép buộc “VNCH” phải tham gia ký HĐ như là một bên liên quan để bắt buộc “VNCH” phải chấp hành nội dung HĐ. Đến đây, ta đã hiểu là chữ ký của VNCH trong HĐ chỉ là với tư cách một bên liên quan chứ không thể là một bên có tư cách như một nhà nước hay một quốc gia quan trọng của Hiệp định.
Và, tại
sao Nhà nước VNDCCH đồng ý với Mỹ cho phép ngụy quyền SG tham gia ký Hiệp định?
Đây mới là trí tuệ của các nhà ngoại giao của nhà nước VNDCCH đấy. Nhìn tổng
quan vào quá trình đàm phám và thực tế trên chiến trường thì chúng ta đều nhận
ra: các nhà lãnh đạo đại diện cho nhà nước VNDCCH đều nhìn thấy hai vấn đề: (1)
Cho ngụy quyền SG tham gia ký là một biện pháp chính trị để hỗ trợ cho quân Mỹ
rút quân cho nhanh để đạt mục đích cao nhất của chúng ta là Mỹ phải cút - tức
là buộc Mỹ phải rút quân khỏi bờ cõi Việt Nam, nên VNDCCH chấp nhận điều kiện
cho VNCH ký vào HĐ, cũng không chết ai. (2) quan trọng hơn, chính chúng ta biết
rằng ngụy quyền SG là một chế độ lưu manh, phản trắc, chắc chắn chúng sẽ giãy
dụa trước khi chết, tức là chúng không đồng ý ngưng chiến. Vậy VNDCCH sẽ gián
tiếp đồng ý với Mỹ bắt chúng phải ký HĐ, sau khi Mỹ cút, chắc chắn chúng sẽ vi
phạm Hiệp định thì ta đánh cho chúng nhào luôn để thống nhất đất nước, đến lúc
đó thì Mỹ, LHQ hay Ủy ban Kiểm soát và Giám sát quốc tế về thực thi HĐ không có
lý do lên án VNDCCH và Quân giải phóng. Và trong thực tế từ 1973 đến 1975 đã
chứng minh điều đó.
Nội dung
của HĐ PR1973 đã chứng minh rõ nhất, sống động nhất cho vấn đề này. Toàn văn
hiệp định (không tính phần chữ ký) có 4.350 từ với 9 chương, 23 điều thì luôn
thể hiện và viết rõ chủ thể là “Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa” chứ không có
lấy một từ viết về cái gọi là “chính quyền VNCH”, hay “quốc gia VNCH” chỉ viết
đúng 01 lần duy nhất cụm từ “Việt Nam Cộng hòa” trong khoản a, Điều 3 rằng: Các
lực lượng của Hoa Kỳ và của các nước ngoài khác đồng minh của Hoa Kỳ và của
Việt Nam Cộng hòa sẽ ở nguyên vị trí của mình trong lúc chờ đợi thực hiện kế
hoạch rút quân. Duy nhất viết 1 lần đó để làm gì? Để buộc lực lượng ngụy quân
phải ở nguyên vị trí cho Mỹ rút quân! Còn toàn bộ nội dung của HĐ chỉ nói đến
hai chủ thể chính của HĐ là giữa Nhà nước VNDCCH và Hoa Kỳ.
Ông Nguyễn
Huy Viện có đọc, có nghiên cứu những vấn đề này chưa? Ông có phải đang bị bọn
Trương Huy San, một số kẻ xét lại và bọn chống cộng cực đoan nhồi sọ không?
LỖI THỨ
HAI: Trong nội dung bài viết của ông Nguyễn Huy Viện cho rằng: “…trong tuyên truyền
vẫn dùng các danh từ Ngụy quân, Ngụy quyền để miệt thị, hạ nhục những đồng bào
của mình ở bên kia chiến tuyến”. Trong các comment của bài này, ông viện luôn
viết “nội dung tuyên truyền đừng làm một nửa đồng bào của cả nước "'Bên
thua cuộc" phải buốt nhói như cách làm hiện tại”.
Với kiểu
xảo biện này, ông Viện không chỉ đang xuyên tạc lịch sử, mà đang xuyên tạc chủ
trương của Đảng, xúc phạm đến danh dự của nhân dân miền Nam.
Quan điểm của Bác Hồ và các nghị quyết của Đảng, người dân Việt Nam, kể cả sách sử
Việt Nam gọi “ngụy quân”, “ngụy quyền” là chỉ nhóm người sốt ít trong bộ máy bộ
máy làm tay sai, bán nước ngụy quyền và ngụy quân, những kẻ trực tiếp bợ đít Mỹ
để giết hại đồng bào mình là nhân dân miền Nam. Chứ Bác Hồ, Đảng ta và Nhân dân
ta KHÔNG/CHƯA BAO GIỜ gọi Nhân dân miền Nam là ngụy. Trong cuộc chiến tranh
chống Mỹ, hơn 80% người dân miền Nam theo cách mạng, cùng với cả nước đổ máu,
đánh đuổi kẻ thù xâm lược, đánh đổ bọn tay sai, bán nước. Đảng ta cũng luôn
khẳng định, Nhân dân miền Nam là lực lượng cách mạng quyết định đến thắng lợi
của cuộc chiến tranh chống xâm lược Mỹ. Ông Viện đã cố tình xuyên tạc quan
điểm, đường lối cách mạng của Đảng, cố ý cho rằng tuyên truyền như thế là “hạ
nhục” đồng bào miền Nam, chính ông Viện đang chà đạp danh dự, xúc phạm đến máu
của Nhân dân Miền Nam. Ông Viện còn nguy hiểm hơn cả bọn phản động.
3. Ngoài
ra, Trong bài viết cũng như trong các comment của ông Viện, ông luôn nhai lại
nhiều lần rằng: “phải tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, nhất là của Mỹ, Pháp,
Nhật để đối phó với quân bành trướng. Ai chia rẽ quan hệ của Việt Nam với các
quốc gia đối quan trọng hàng đầu là có tội với lịch sử.” Tôi hỏi ông Viện tại sao
không nhắc đến quan hệ giữa Việt Nam với Nga, Đức, Anh… mà chỉ nhắc đến Mỹ,
Pháp, Nhật? Phải chăng 3 quốc gia trên là cha đẻ của 3 chế độ bù nhìn, tay sai:
“VNCH”, "Quốc gia Việt Nam”, “Đế quốc Việt Nam”? Cũng từ nội dung này thể
hiện ông Viện mang gen cầu ngoại bang, nếu lịch sử lặp lại chắc chắn ông Viện
là một tên làm tay sai có số má.
Với một người từng là Đại tá Quân đội, từng là Bí Thư tổ chức Đảng
cấp đảng bộ cơ sở, từng là chính trị viên của một đơn vị cho ông ta cái cấp bậc
đại tá, từng đứng trên bục giảng giảng về nghị quyết Trung ương 4 khóa XI
"về một số vấn đề cấp bách về xây dựng đảng hiện nay", nhưng lại khóc
như cha chết khi ông Phan Huy Lê chết, lại đau đáu nỗi đau của ông Lê Đình Kình
thì tôi cũng chịu thua. Nay dù ông ta đã về hưu thì cũng cần phải xử lý nghiêm
túc. Ông viện không xứng đáng đứng vào hàng ngũ cựu chiến binh bởi ông Viện là
một kẻ trở cờ, trở quẻ, gian manh, vô liêm sĩ./.
St
Đăng nhận xét