Ngày 7/5/1954, trên đại ngàn Tây Bắc, quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạp bằng mọi khó khăn thử thách, đập tan tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp và can thiệp của đế quốc Mỹ, dựng nên mốc son chói lọi trong dòng chảy lịch sử dân tộc, đồng thời làm “chấn động địa cầu”, tác động mạnh đến phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
ĐIỆN BIÊN PHỦ - ĐỊA
BÀN CHIẾN LƯỢC QUAN TRỌNG
Điện Biên Phủ là một
thung lũng lòng chảo rộng lớn ở phía Tây vùng rừng núi Tây Bắc, gần biên giới
Lào-Việt, nằm trên ngã ba nhiều đường lớn và đường nhỏ quan trọng.
Đối với thực dân Pháp
và đế quốc Mỹ, Điện Biên Phủ là một địa bàn chiến lược hết sức quan trọng, là
một vị trí chiến lược cơ động ở giữa miền Bắc Việt Nam, Thượng Lào và miền Tây
Nam Trung Quốc, có thể trở thành một căn cứ rất lợi hại trong âm mưu xâm lược
của chúng ở vùng Đông Nam Á.
Thấy rõ vị trí quan
trọng đó của Điện Biên Phủ, ngày 20/11/1953, thực dân Pháp cho quân nhảy dù
xuống Điện Biên Phủ và xây dựng ở đây một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông
Dương.
Lực lượng của địch ở
Điện Biên Phủ gồm 17 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công
binh, 1 đại đội xe tăng, 1 đại đội xe vận tải có khoảng 200 chiếc và phi đội
không quân thường trực có 14 chiếc. Tổng số binh lực là 16.200 tên. Chúng bố
trí thành tập đoàn cứ điểm gồm 40 cứ điểm, tổ chức thành 8 cụm, mỗi cụm cứ điểm
là một hệ thống hoả lực nhiều tầng. Tám cụm cứ điểm họp thành ba phân khu, 80%
lực lượng không quân ở Đông Dương và nhiều loại vũ khí hiện đại khác của Pháp
và Mỹ đã được đưa vào tác chiến ở Điện Biên Phủ.
Với số quân đông, hoả
lực mạnh, công sự vững chắc, các tướng tá Pháp và Mỹ xác nhận đây là "một
tập đoàn cứ điểm đáng sợ", "một pháo đài bất khả xâm phạm". Xây
dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, thực dân Pháp và can thiệp Mỹ hòng thực
hiện ý đồ thu hút chủ lực ta lên đó để tiêu diệt, rồi chuyển sang tiến công ta.
"TẤT CẢ CHO MẶT
TRẬN, TẤT CẢ ĐỂ CHIẾN THẮNG "
Thực hiện quyết tâm
của Bộ Chính trị Trung ương Đảng tiêu diệt toàn bộ quân địch ở tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ, công việc chuẩn bị cho chiến dịch được ráo riết tiến hành từ
cuối năm 1953.
Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chỉ thị: "Chiến dịch này là một chiến dịch quan trọng không những về quân
sự mà cả về chính trị, không những đối với trong nước mà đối với quốc tế. Vì
vậy toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành cho kỳ được".
Trung ương Đảng quyết định thành lập Đảng uỷ và Bộ chỉ huy mặt trận Điện Biên
Phủ do đồng chí Võ Nguyên Giáp, Uỷ viên Bộ Chính trị Trung ương Đảng, trực tiếp
làm Bí thư Đảng uỷ và Chỉ huy trưởng mặt trận.
Chính phủ quyết định
tổ chức Hội đồng cung cấp Mặt trận Trung ương do Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng
làm Chủ tịch và Hội đồng cung cấp Mặt trận các cấp.
Với khẩu hiệu
"Tất cả cho mặt trận, tất cả để chiến thắng”, nhân dân ta đã dồn hết sức
người, sức của cho chiến dịch. Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã quyết định tập
trung 4 đại đoàn bộ binh, 1 đại đoàn công pháo với tổng quân số trên 40.000
quân. Các đơn vị bộ đội chủ lực nhanh chóng tập kết, ngày đêm bạt rừng, xẻ núi
mở đường, kéo pháo, xây dựng trận địa, sẵn sàng tiến công địch. Trên 260.000
dân công, thanh niên xung phong bất chấp bom đạn, hướng về Điện Biên bảo đảm
hậu cần phục vụ chiến dịch...
Đầu tháng 3/1954, công
tác chuẩn bị mọi mặt cho chiến dịch đã hoàn thành.
- Ngày 13/3/1954, quân
ta nổ súng mở đợt tiến công thứ nhất vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Sau 5
ngày chiến đấu, ta đã tiêu diệt nhanh gọn hai cứ điểm kiên cố bậc nhất của địch
(Him Lam và Độc Lập), sau đó, làm tan rã thêm một tiểu đoàn địch và tiêu diệt
cứ điểm Bản Kéo. Ta diệt và bắt sống 2.000 tên địch, bắn rơi 12 máy bay, mở
thông cửa vào trung tâm tập đoàn cứ điểm, uy hiếp sân bay Mường Thanh, giáng
một đòn choáng váng vào tinh thần binh lính địch. Trong đợt tiến công mở đầu
này, Phan Đình Giót đã nêu gương chiến đấu dũng cảm, lấy thân mình lấp lỗ châu
mai tạo điều kiện cho toàn đơn vị tiến lên tiêu diệt địch.
Ngày 16/3/1954, địch
cho 3 tiểu đoàn nhảy dù xuống tăng viện cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
- Ngày 30/3/1954, ta
mở đợt tiến công thứ hai đánh đồng loạt các ngọn đồi phía đông của phân khu
trung tâm.
Đánh vào khu đông, ta
tiêu diệt 2.500 tên địch, chiếm lĩnh phần lớn các điểm cao quan trọng ở phía
đông, củng cố từ trên đánh xuống, tạo thêm điều kiện chia cắt, bao vây, khống
chế địch, chuyển sang tổng công kích tiêu diệt địch.
Để tăng cường cho Điện
Biên Phủ, thực dân Pháp đã tập trung hầu hết máy bay chiến đấu, máy bay vận tải
ở Đông Dương cho mặt trận. Đế quốc Mỹ tăng viện gấp cho Pháp 100 máy bay oanh
tạc chiến đấu, 50 máy bay vận tải và cho Pháp mượn 29 máy bay C119 có cả người
lái; lập cầu hàng không chở dù từ Nhật và Mỹ sang mật trận Điện Biên Phủ. Đế
quốc Mỹ còn đưa 2 tàu sân bay vào vịnh Bắc Bộ diễn tập "đổ bộ ào ạt vào
Đông Dương".
- Ngày 1/5/1954, ta mở
đợt tiến công thứ ba. Quân ta lần lượt đánh chiếm những cứ điểm còn lại ở phía
đông và phía tây, bẻ gãy những cuộc phản kích của địch.
Ngày 4/5/1954, địch
thả tiểu đoàn dù dự bị cuối cùng xuống Điện Biên Phủ.
Ngày 7/5/1954, bộ đội
ta phất cao cờ chiến thắng, tiến thẳng vào sở chỉ huy địch, tướng Đờ Cáttơri
(De Castries) và toàn bộ tham mưu tập đoàn cứ điểm bị bắt sống.
Kết quả, sau 55 ngày
đêm chiến đấu vô cùng anh dũng, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ đã toàn thắng.
Ta tiêu diệt và bắt sống 16.200 tên địch. Tổng cộng, số lượng địch bị tiêu diệt
và bắt sống tại Điện Biên Phủ bằng 4% quân số địch ở Đông Dương, 20% lính
Âu-Phi. Đồng thời thu được 28 khẩu pháo, 5.915 khẩu súng lớn nhỏ, 3 xe tăng, 64
ô tô, 43 tấn dụng cụ thông tin, 40.000 lít xăng dầu, bắn rơi 62 máy bay các
loại…
SỰ KIỆN MANG GIÁ TRỊ
VÀ TẦM VÓC THỜI ĐẠI
Chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ, đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã khẳng định
đường lối kháng chiến đúng đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là
đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ tự lực cánh sinh, đã phát
huy cao độ truyền thống yêu nước, ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc
Việt Nam. Chiến thắng Điện Biên Phủ đi vào lịch sử của dân tộc ta như một Bạch
Đằng, một Chi Lăng, hay một Đống Đa trong thế kỷ XX, và đi vào lịch sử thế giới
như một chiến công chói lọi đột phá thành trì của hệ thống nô dịch thuộc địa
kiểu cũ của chủ nghĩa đế quốc.
Thắng lợi của cuộc
tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên
Phủ đã khẳng định sức mạnh to lớn của nhân dân Việt Nam. Có thể nói, thực dân
Pháp và can thiệp Mỹ đã hoàn toàn bất ngờ trước sức mạnh của Quân đội nhân dân
Việt Nam, trước việc “Việt Minh” có đủ lương thực và vũ khí để chiến đấu liên
tục trong suốt gần hai tháng trên địa bàn hiểm trở, xa hậu cứ trước việc xuất
hiện của trọng pháo trên trận địa đỉnh núi…
Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, buộc thực dân Pháp
phải ngồi vào bàn Hội nghị cùng ký Hiệp định Geneva chấm dứt cuộc chiến tranh
xâm lược (1945-1954) ở Đông Dương, miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng.
Hiệp định Geneva đã tạo được cục diện mới, tạo tiền đề và cơ sở pháp lý rất
quan trọng để dân tộc ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
(1954-1975).
Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã khẳng định: "Chiến thắng Điện Biên Phủ là thắng lợi vĩ đại của nhân dân
ta mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế
giới".
Chiến thắng Điện Biên
Phủ không chỉ đặt dấu chấm hết cho chủ nghĩa thực dân của Pháp tại Đông
Dương, mà còn trở thành nguồn cảm hứng lớn lao, tác động mạnh mẽ tới phong trào
giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những nước thuộc địa châu
Phi.
Chiến thắng Điện Biên
Phủ là sự cộng hưởng của sức mạnh dân tộc và thời đại, sự lãnh đạo sáng suốt
của Đảng là nhân tố cơ bản tạo nên sức mạnh Việt Nam, bản sắc văn hóa giữ nước
Việt Nam mà nền tảng là lòng yêu nước; các nhân tố đó tiếp tục là sức mạnh bảo
đảm cho sự thành công của công cuộc xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
St
Đăng nhận xét