Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) vừa ban hành Thông tư
quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học.
Thông tư này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/3/2020.
Theo
đó, văn bằng giáo dục đại học bao gồm: Bằng cử nhân, bằng thạc sĩ, bằng tiến sĩ
và các văn bằng trình độ tương tương sẽ bao gồm 10 nội dung chính cho biết tên
văn bằng, ngành đào tạo, tên cơ sở cấp bằng, tên người được cấp bằng, hạng tốt
nghiệp (nếu có)… và bỏ qua thông tin về loại hình đào tạo, như trong quy định
cũ.
Thay
vào đó, những chữ thể hiện hình thức đào tạo ("chính quy", "tại
chức", "đào tạo từ xa"...) sẽ chỉ được ghi trên phụ lục văn
bằng, cùng với các thông tin khác như: Điểm môn học, điểm trung bình, tên và
kết quả luận văn, luận án, điểm xếp hạng tốt nghiệp của người học.
Có
thể thấy rằng, với Thông tư mới này, các cơ sở giáo dục đại học lẫn những người
học không chính quy đã hoàn toàn được “cởi trói” khỏi tư duy chạy đua theo
những tấm bằng chính quy vẫn được coi là danh giá.
Thật
vậy, hàng năm có một kỳ thi tuyển sinh đại học, mặc dù sau này đã được tích hợp
vào kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia, song vẫn gây nhiều lãng phí công sức, tiền
của của xã hội khi phải tổ chức quy mô lớn, cả học sinh lẫn giáo viên, phụ
huynh đều như bước vào trận chiến.
Rồi
sau đó là nạn thi hộ, chạy điểm vì ai cũng muốn con em mình có một chỗ ngồi
trên giảng đường.
Những
học sinh trượt đại học coi như cuộc đời bị rẽ sang hướng khác, phải làm những
công việc phổ thông hơn, kém sang trọng hơn. Một số người sau đó dù nỗ lực học
tại chức, vừa học vừa làm thì đến khi đi xin việc vẫn bị nhà tuyển dụng phân
biệt đối xử kiểu “dốt chuyên tu, ngu tại chức”.
Những
người không có cơ hội sở hữu tấm bằng đại học chính quy thường bị thui chột đi
ý chí học tập. Nhiều người bằng lòng với công việc tay chân, hoặc có xu hướng
tự mình đúc rút từ thực tế làm việc hơn là tiếp tục theo học để nâng cao chất
lượng công việc.
Chính
vì thế, cụm từ “học tập suốt đời” trở nên xa lạ với rất nhiều người Việt hiện
nay.
Ủng
hộ chủ trương này của Bộ GD-ĐT, tôi cho rằng đây là điều kiện cần để hướng đến
mô hình giáo dục mở, vận động người dân học tập suốt đời, học đi đôi với hành,
học vì yêu cầu của công việc, của xã hội chứ không phải vì bằng cấp.
Tuy
nhiên, chủ trương chính sách nào cũng có tính chất hai mặt của nó và nếu không
thực hiện đúng sẽ gây ra tình trạng “vỡ trận”, nhất là trong bối cảnh giáo dục
nước nhà vẫn còn nhiều hạn chế.
Thứ
nhất, bỏ tư duy bằng cấp không có nghĩa là cào bằng chất lượng học tập. Chúng
ta biết, trong Kinh tế học có một khái niệm căn bản là “chi phí cơ hội”
(opportunity cost) - một khái niệm hữu ích được sử dụng trong lý thuyết lựa
chọn. Chi phí cơ hội của một lựa chọn thay thế được định nghĩa như chi phí do
đã không lựa chọn cái thay thế tốt nhất kế tiếp.
Một
người bỏ công sức, thời gian, tiền của vào việc học tập để đạt được tấm bằng
tốt nghiệp đại học chính quy không nên được đánh đồng với một người lười biếng
không chịu học hành, hoặc dùng thời gian lẽ ra để học đó đi làm kiếm tiền rồi
sau đó thi vào đại học tại chức dễ dàng hơn.
Bởi
vậy, công bằng là phải đánh giá một ứng viên về cả bằng cấp (thể hiện thái độ
học tập) và kỹ năng mềm, năng lực làm việc thực tế. Tuyệt đối hoá năng lực làm
việc, không quan tâm bằng cấp hoặc là không rõ ràng minh bạch trong việc ghi
phụ lục văn bằng đều thể hiện tinh thần cào bằng chất lượng giáo dục.
Thứ
hai, việc trao quá nhiều quyền cho cơ sở giáo dục đào tạo (ở đây là các trường
đại học) nếu thiếu đi sự quản lý sát sao sẽ dễ gây nên tình trạng lạm quyền,
thao túng bằng cấp.
Việc
buông lỏng quản lý trong khi thực hiện chủ trương thi THPT quốc gia 2 trong 1
(cụ thể là ở khâu trông thi và chấm thi) đã khiến chúng ta nhận hậu quả nặng nề
là vụ gian lận thi cử ở Hà Giang, Sơn La, Hoà Bình năm 2018.
Giao
quyền tự chủ cho trường đại học mà thiếu giám sát cũng gây ra vụ bê bối tuyển
sinh chui 2.000 thí sinh và cấp bằng khống cho 400 học viên ở Đại học Dân lập
Đông Đô trong suốt 3 năm (từ 2017 đến 2019).
Bởi
vậy nếu chủ trương mới này không đi kèm với thắt chặt kiểm tra, giám sát thì sẽ
dẫn đến tình trạng các trường đại học buông lỏng hệ chính quy chạy theo hệ khác
vì các loại đào tạo này học phí cao hơn, thi đầu vào dễ hơn….
Việc
cho phép có thể ghi hay không ghi xếp hạng bằng cấp: Giỏi, Khá, Trung bình (hiện
nay mục xếp hạng này chưa bị bỏ nhưng đang để mở bằng chữ “nếu có”) cũng dễ tạo
điều kiện cho các trường đánh đồng bằng cấp.
Thứ
ba, “cởi trói” cho hệ tại chức, đào tạo từ xa… thì chất lượng đào tạo loại hinh
này phải được nâng cao, cải thiện so với hiện nay.
Có
một thực tế là hiện nay đào tạo chính quy và không chính quy của Việt Nam đều
phát triển không đồng đều.
Nếu
như hệ đào tạo chính quy làm nảy sinh hiện tượng mua bằng cấp, chạy chức, chạy
quyền thì hệ không chính quy phổ biến tình trạng học lấy được, học chỉ để lấy
bằng.
Chúng
ta đang hướng đến hệ thống giáo dục mở, nghĩa là học không bó buộc trong thời
gian không gian nào mà học theo hình thức tích lũy, cần cái gì học cái đó, ở
bất cứ môi trường nào cũng học tập được.
Các
nhà giáo dục cũng kỳ vọng rằng hình thức học trực tuyến, thi trên máy, chấm
trên máy (tất nhiên phải hoàn toàn khách quan chứ không phải con người có thể
can thiệp vào máy móc như các vụ gian lận ở Hà Giang, Sơn La, Hoà Bình) sẽ hạn
chế được những tiêu cực như hiện nay, từ đó đảm bảo chất lượng cho hệ không
chính quy.
Vấn
đề cuối cùng, vẫn phải là thái độ học tập của mỗi người. Học không nên chỉ vì
bằng cấp, cũng không nên chỉ để có một công việc mơ ước. Trong một xã hội học
tập, người sử dụng lao động sẽ đánh giá sàng lọc lao động thường xuyên, bởi vậy
người lao động phải tư duy rằng học tập là suốt đời, để nâng cao kiến thức
trình độ phục vụ công việc và đòi hỏi của cuộc sống.
Đăng nhận xét