Đối
với Trung Quốc, ta chỉ ngang với một tỉnh của họ, nên không thể dùng một trận
mà đòi lại được biển đảo. Còn giả sử ta có phép mầu tiến hành chiến tranh thắng
được Trung Quốc thì đất nước cũng nát tan. Dọn nhà tránh hàng xóm đã khó còn
dọn nước để tránh láng giềng là điều không thể. Làm một trận đòi lại của đã mất
cũng không được. Vấn đề biển đảo chỉ có thể dùng chiến lược ngoại giao mềm dẻo
nhưng cương quyết để đối phó với Trung Quốc. Ta đối phó bằng chính sự cao
thượng, đúng sai, phải trái để giành lấy sự ủng hộ quốc tế. Bằng ngược lại, ta
đã nhỏ yếu, lại ứng xử theo kiểu trẻ con, xỏ xiên thì ta sẽ được nhận lại thái
độ gì, và ta cũng sẽ làm được gì họ?
Tham
vọng bành trướng bá quyền vốn là “đặc sản” của người Tàu và cũng là bản tính
chung của các đế quốc. Nhưng sau bao cuộc chiến đẫm máu đã dẫn tới xu hướng của
thời đại: Đối thoại thay cho đối đầu, nước ta cũng đã thực hiện thành công
chính sách ngoại giao đa phương. Ai cũng biết ông cha ta vừa thắng giặc phương
Bắc xong vẫn sang triều cống và xin phong Vương. Bây giờ không còn vậy nhưng
vẫn phải hiểu, chiến lược ngoại giao phải phụ thuộc vào thế và lực của ta,
không phải muốn sao cũng được. Sai lầm trong đối ngoại là sẽ dẫn tới thảm họa,
bất kể nước nào.
Vấn
đề biển đảo vẫn còn nguyên đó. Ta tốt nhất vẫn là “vừa hợp tác, vừa đấu tranh”.
Cuộc
đấu tranh ngoại giao phải luôn kiên trì, không ngừng nghỉ, phải kiên quyết hỗ
trợ và bảo vệ cho ngư dân bám biển. Còn không, “im lặng nghĩa là đồng ý”, nước
ta sẽ vĩnh viễn mất biển!
Nhưng
cũng phải thực tế, làm sao đừng để lợi bất cập hại. Lực ta có hạn mà lại đòi
mọi cái theo ý mình sẽ là ảo tưởng. Cơ sở để giải quyết các tranh chấp ở Biển
Đông là tranh thủ luật pháp quốc tế. Thế giới sẽ ủng hộ ta không chỉ vì ta mà
còn vì lợi ích của chính họ. Không ai muốn Trung Quốc bành trướng thành siêu
cường, rồi có thể tùy tiện áp đặt mọi sở thích cũng như tham vọng của họ lên
toàn thế giới.
Nước
ta năm 1887, vua thì bị bắt đi đầy, tên nước đã bị xóa, tức đã mất hoàn toàn
vào tay Pháp, thành bộ phận của Liên bang Đông Dương. Không ai muốn một tấc đất
mà hàng ngàn năm tổ tiên ông cha ta đã đổ máu gìn giữ được, nhưng sức ta có
hạn, không phải mọi thứ đều như ý.
Năm
1956, khi Pháp buộc phải rút khỏi Việt Nam theo Hiệp định Geneve 1954, trong
bối cảnh ta chưa củng cố và quản lý tốt các vùng biển đảo, Trung Quốc đã tranh
thủ chiếm cụm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa. Đến 1974, được sự thỏa hiệp
của Mỹ, Trung Quốc khiêu khích dẫn đến sự manh động nổ súng trước của quân ngụy
Sài gòn, rồi lấy cớ mạnh tay đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa kể cả đảo Tri Tôn xa
lơ xa lắc.
Đối
với Trường Sa, chúng ta là nước đầu tiên làm chủ cả một vùng biển đảo rộng lớn,
nhưng chúng ta chỉ đóng giữ được ở một số đảo nổi. Không chỉ Trung Quốc, năm
1971, Philippines đã lấn chiếm 5 đảo phía Đông Trường Sa, đến 1973, họ lấn tiếp
hai đảo ở phía Bắc. Với Malaysia, cho đến năm 1979, họ đã chiếm 7 đảo phía Nam
Trường Sa.
Đặc
biệt năm 1988, nhân cuộc chiến tranh biên giới phía Tây Nam, ta đang tập trung
vào việc rút quân khỏi Campuchia, Trung Quốc đã đánh chiếm 7 bãi đá ngầm ở
Trường Sa bắt đầu là bãi đá ngầm Chữ Thập mà nay chúng đã cải tạo thành một
pháo đài. Như vậy hậu quả của các cuộc xung khắc thật tai hại, nhất là với nước
lớn sát vách như Trung Quốc, họ tranh thủ cơ hội xâm lấn đất của ta, rồi dù có
bình thường hóa trở lại, đòi những gì ta đã mất là rất khó, nhất là vùng hải
đảo xa xôi, họ hoàn toàn có thể bịa ra căn cứ pháp lý chủ quyền như hiện tại
mọi người đã thấy về "Cái lưỡi bò".
Đến
hôm nay, Trung Quốc chưa gây chiến trên Biển Đông là vì phe hiếu chiến chưa nắm
quyền. Đến khi đó, từ việc khoét sâu mâu thuẫn đến leo thang xung đột, từ khẩu
chiến đến chiến tranh lạnh, từ xung đột tranh chấp tới chiến tranh toàn diện
chỉ trong tích tắc như cuộc chiến năm 1979.
Nếu
chiến tranh trên bộ thì Trung Quốc chắc chắn sẽ có kết quả tương tự như năm
1979, không có cơ hội nào. Nhưng nếu là những trận đánh trên biển, sự thiệt hại
của Trung Quốc dù lớn cũng sẽ là nhỏ so với thực lực tổng thể của họ. Trung
Quốc sẽ có thể mất thật nhiều lính, mất nhiều tỷ đô la, một phần lớn vũ khí sẽ
bị hư hại, nhiều tàu sẽ chìm, song với tiềm lực khổng lồ họ rất sẵn sàng bổ
sung nhanh chóng và duy trì cuộc chiến lâu dài.
Trong
khi phía Việt Nam có thể tiếp nối truyền thống lấy ít địch nhiều, Việt Nam sẽ
gây thiệt hại nặng cho địch về vũ khí trang bị, con người, nhưng chắc chắn
chúng ta cũng sẽ có thiệt hại và buộc phải kéo dài và xé nhỏ cuộc chiến. Và
đáng lo nhất là sau 1 cuộc chiến hao tổn sức người, sức của và hy sinh mất mát
ta vẫn chưa thể có chiến thắng triệt để cuối cùng dù kéo dài đến 5 năm, 10 năm,
20 năm hay lâu hơn nữa..
Khi
nói, phán, chửi, chê thì rất dễ, nhưng khi bắt tay trực tiếp vào làm mới thấy
biết bao nhiêu chuyện phức tạp.
Lực
lượng Hải quân nhân dân và Không quân nhân dân Việt Nam hiện nay đang được hiện
đại hóa, có tính răn đe cao, làm cho Trung Quốc chùn bước chứ không làm cho
chúng ngừng ý định bành trướng xuống phương Nam. Vì những lẽ đó, mới có xu
hướng lấy đại cuộc làm đầu, nhằm bảo vệ chủ quyền biển đảo và giữ gìn hòa bình
và sự ổn định trong khu vực.
Nhưng
khi có chiến tranh, Việt Nam ít nhiều gì cũng sẽ ảnh hưởng tới vấn đề chủ
quyền, suy giảm năng lực phòng thủ, tạo ra thêm nguy cơ mất chủ quyền lớn hơn,
bao nhiêu người hy sinh, và sẽ còn nhiều mất mát khác, kinh tế bị ảnh hưởng
xấu, đời sống người dân nhất là ngư dân sẽ bị ảnh hưởng to lớn hơn nữa.
Bây
giờ khi xảy ra cái gì, dù là chuyện nhỏ thôi, chúng nó vin vào đó bảo Việt Nam
vi phạm lung tung rồi bật đèn xanh thả lỏng cho giới trẻ, blogger Trung Quốc,
hoặc chủ động cho truyền thông chính thống tuyên truyền bôi nhọ Việt Nam, xúc
phạm những anh hùng liệt sĩ Việt Nam, xuyên tạc công cuộc bảo vệ Tổ quốc của
ta... thì ắt sẽ leo thang xung đột, và xung đột kéo theo xung đột không dứt...
Bởi vậy hành động của những kẻ xét lại lịch sử rất phù hợp với dã tâm của Trung
Quốc chứ không chỉ phù hợp với riêng bọn phản động hải ngoại.
Thành
phần Trung Quốc theo chủ nghĩa sô-vanh đại dân tộc thì lâu nay luôn có dã tâm,
chỉ cần chúng lên cầm quyền là xong. Và còn bao nhiêu thế lực Mỹ - Tây Âu, phản
động đang rình rập tìm cách kích động chiến tranh giữa 2 nước từ nhiều động cơ
khác nhau. Không nên thấy biển lặng sóng yên rồi mơ mộng tình hình vẫn đang ổn
lắm, tốt lắm, thật ra chiến sự có thể bùng nổ bất cứ lúc nào.
Từ
khi Việt Nam giành lại được độc lập từ năm 1945 tới nay, bất kỳ bọn giặc nào,
từ đâu, kéo tới xâm lược là ta đều đánh chúng ra ngoài, hết giặc này đến giặc
khác, trong đó có cả Trung Quốc. Còn khi chúng chưa kéo tới đánh thì ta luôn
tuyên bố khẳng định chủ quyền và tuyên bố công khai, chính thức phản đối những
hành động xâm phạm chủ quyền hoặc hành xử chủ quyền trên những vùng bị tạm
chiếm.
Chúng
ta liên tục và thường xuyên phản đối cấp quốc gia và quốc tế đối với những
tuyên bố của Trung Quốc và những hành động hành xử chủ quyền và hợp tác khai
thác tài nguyên trong vùng tranh chấp. Chúng ta liên tục, thường xuyên công
khai và chính thức khẳng định chủ quyền lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố. Bác bỏ
những tuyên bố chính thức của Trung Quốc…
Chúng
ta liên tục nâng cấp vũ khí, hiện đại hóa hải quân, không quân, mua sắm mới, tự
chủ sản xuất mới, trong khi đang có tranh chấp biển đảo với Trung Quốc. Chúng
ta nhiều lần tập trận bắn đạn thật, phóng tên lửa thật ở Trường Sa, trên Biển
Đông, ngay trên những vùng Trung Quốc coi là của mình và tuyên bố chủ quyền.
Việt
Nam công khai và chính thức, quang minh chính đại làm những hành động trực tiếp
như trên, cả thế giới biết Việt Nam đang có tranh chấp, bất đồng về biển đảo,
lãnh hải, lãnh thổ với Trung Quốc.
Việt
Nam luôn đặt chủ quyền lên trên hết, mỗi hành động đều như tát nước vào các
tuyên bố và hành động của Trung Quốc, trái ngược và đối nghịch, đối chọi chan
chát với những lập trường, quan điểm, quyền lợi của Trung Quốc, mỗi hành động
này đều có thể tạo ra sự leo thang thành xung đột vũ trang và chiến tranh trên
biển. Việt Nam ý thức rõ điều đó, nhưng vẫn làm, vì nó là chủ quyền.
Tất
cả những gì liên quan tới chủ quyền, lãnh thổ thì Việt Nam đều đã làm những gì
có thể làm, những gì trong khả năng thực tế mà thế và lực Việt Nam hiện nay có
thể làm. Bất kể nó trái ngược với lợi ích kinh tế hay hòa bình ổn định của Việt
Nam trong khu vực. Bất kể nó đi ngược lại với những tuyên bố, khẳng định, quan
điểm, lập luận, và lợi ích của Trung Quốc. Và bảo vệ hòa bình trong trường hợp
này cũng chính là bảo vệ chủ quyền, vì khi có chiến tranh thì Việt Nam có thể
yếu hơn so với tương quan lực lượng quân sự giữa các bên liên quan.
Năm
1988, chúng ta không thể để leo thang chiến tranh thành một cuộc chiến quy mô
lớn trên biển mà chúng ta rất bất lợi, có nguy cơ mất trắng vì còn đó sự xâu xé
của nhiều nước tại Trường Sa.
Trong
tất cả những hành động đó, có thể thấy rõ ràng là: Xưa nay, Việt Nam luôn đặt
chủ quyền lên trên hết, vì chủ quyền thì khi cần đánh chúng ta vẫn phải đánh.Ta
không hy sinh chủ quyền chỉ vì muốn hòa bình. Ta không dùng chủ quyền để đánh
đổi hòa bình phụ thuộc. Những năm tháng chống Trung Quốc trong thời gian
1979-1992 đó đã cho chúng ta thấy rất rõ sự nhất quán trước sau như một, chúng
ta vừa đánh để giành chủ quyền vừa tìm cách giữ cho nó trong sự kiểm soát,
không để bất kỳ thế lực thứ 3 nào lợi dụng, khoét sâu, kích động để leo thang
cuộc chiến, cố gắng vãn hồi hòa bình, cố gắng tránh xung đột quy mô lớn.
Người
làm chính trị luôn lo đến cái lợi lớn của đất nước, cái tổng thể, cái chung
nhất, cái lâu dài, cái bền vững, không để những tiểu tiết làm hư đại sự, không
vì muốn thỏa mãn những cảm tính, tự ái nhất thời mà làm hỏng đại cuộc. Vì những
lẽ lợi - hại đó, vẫn sẽ có những hạn chế phần nào trong báo chí và dư luận để
phục vụ cho sách lược đối ngoại chung đối với Trung Quốc, giữ cho tất cả trong
vòng kiểm soát, không leo thang căng thẳng, dần đưa tới mâu thuẫn, từng bước
đưa đến xung đột quân sự và chiến tranh quy mô. Đồng thời không để thế lực thứ
ba nào lợi dụng tình hình căng thẳng giữa hai bên để trục lợi.
Còn
đối với những kẻ phản động, từng có "thành tích" bán nước, theo giặc
3 đời vẫn luôn miệng tuyên truyền dối trá nâng quan điểm về những cái gọi là
"đại họa mất nước" (?) v.v. thì họ là những kẻ thù hận điên cuồng, u
mê mù quáng, không dám chấp nhận sự thật. Chúng ta không quan tâm và không hy
vọng gì vào những phần tử này. Khi Việt Nam giữ quan hệ bình thường với Trung
Quốc thì họ vẫn sẽ còn tiếp tục bám vào đó, sống ký sinh lên trên đó và tiếp
tục chửi bới.
Nhưng
nếu Việt Nam chuyển sang chống Trung Quốc như trong giai đoạn 1979-1992 thì
cũng không có khả năng nào họ theo Việt Nam chống Trung Quốc, mà trái lại họ sẽ
càng lợi dụng phá thêm và mong muốn Trung Quốc chiến thắng, như họ đã từng mong
muốn "Trung Cộng đánh thẳng vào Hà Nội giết sạch Việt Cộng" năm 1979.
Bọn Fulro và bọn khủng bố tiền thân của Việt Tân nhân cơ hội chiến tranh đó, đã
"đục nước béo cò", "thừa nước đục thả câu" mà thừa cơ đánh
phá vào trong nước, đem tiền giả, ma túy, súng đạn vào khủng bố trong nước.
Những kinh nghiệm từ lịch sử vẫn còn rành rành.
Đây
là bọn phản quốc và trên thực tế đã chống dân tộc, chống đất nước, chống Tổ
quốc nhiều đời, nhiều lần trong lịch sử hiện đại, chứ không chỉ có chống Đảng
Cộng sản, chống Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống CNXH, chống CNCS. Họ trung thành
với Vatican, với Pháp, với nước Mỹ chứ không phải trung thành với nước Việt. Họ
yêu bản thân chứ không yêu nước. Mục đích tối hậu của họ là lật đổ Nhà nước
Việt Nam để phục hận sau khi những lợi ích gắn liền với giặc xâm lược của họ bị
mất sạch sau khi Việt Nam thắng Mỹ. Họ muốn trở về rửa hận, lấy lại những gì đã
mất, để tranh quyền giành ghế, tranh giành quyền lực để được làm ông nọ bà kia.
Mối quan hệ phức tạp Việt - Trung chính là một trong những chiêu bài để họ nắm
lấy, khai thác, và lợi dụng để thực hiện mục đích tối hậu đó, vì lợi ích riêng
của chính bản thân họ, bất chấp lợi ích chung của đất nước và dân tộc.
Người
làm chính trị có thực tâm và thực tài là những người biết phân biệt giữa cái
lợi của một người, cái lợi của một nhóm, và cái lợi tổng thể của cái chung, của
dân tộc, đất nước. Và chủ quyền và sự hòa bình chính là cái lợi lớn đó. Lãnh
đạo có tài và có tâm họ đặt nặng và coi trọng vào cái lợi lớn, cái lợi ích
chung đó. Họ đặt tình cảm vào cái chung, cái lớn, toàn dân, toàn quốc, nặng hơn
cái tình cảm cá nhân với một người hay một nhóm, cái riêng tư, cục bộ. Đặt nặng
cái lâu dài hơn cái nhất thời.
Họ
cũng căm tức nhưng họ có trách nhiệm gánh vác to lớn, họ không có quyền để cảm
xúc, cảm tính điều khiển hành động, không được hành động cho đã cái nhất thời
bất chấp tất cả, rồi sau đó thế nào mặc kệ, không chịu trách nhiệm. Nếu vậy thì
đó mới là một chính phủ vô trách nhiệm. Chiến tranh đổ máu, mất thêm chủ quyền
lãnh hải lãnh thổ, thì sao đây?./.
Đăng nhận xét