Đã
thành thông lệ, nhiều năm qua, hễ cứ đến dịp 30/4 là một số tổ chức, cá nhân
chống cộng trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài lại tổ chức một số hoạt động
xuyên tạc cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân
Việt Nam, đồng thời xuyên tạc các giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền đang được
khẳng định ở Việt Nam như để tự an ủi cho cái mơ ước hão huyền là dựng lại
“thây ma VNCH”. Bày tỏ ý kiến về vấn đề này, vừa qua trên trang Trực Diện Tivi,
ông Minh Giang, một người Mỹ gốc Việt, đã công bố clip có nhan đề “Tự do Internet
lột mặt nạ đấu tranh chống cộng cuội”. Và dưới đây là bản lược ghi các ý kiến
đó. Xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo.
Bây
giờ đang là thời gian mà một số người Việt Nam tị nạn ở nước ngoài, cụ thể như
ở Mỹ, nhân danh tổ chức, đảng phái, hội đoàn hoạt động hòng đấu tranh lật đổ
cộng sản Việt Nam hay đấu tranh chống cộng sản theo nghĩa cực đoan, hoặc các
hội đoàn “đấu tranh dân chủ nhân quyền cho Việt Nam” tổ chức nhiều sự kiện như
buổi tưởng niệm, thắp nến, diễu hành, ca nhạc... Năm nay những việc như vậy
không thực hiện được vì dịch Covid-19 tại Mỹ vẫn chưa chấm dứt. Nhưng những hội
thảo, bàn luận trên truyền hình, trên ra-đi-ô vẫn diễn ra, và họ lại bàn về các
kế hoạch rồi chỉ trích, chế giễu các chính sách ở Việt Nam. Thực ra chẳng có gì
đáng ngạc nhiên bởi bốn mươi mấy năm nay cách đấu tranh chống cộng của nhóm
người Việt tị nạn tại Mỹ vẫn cứ kéo dài như thế. Tuy nhiên, ngày càng nhiều
người nói rằng đấu tranh kiểu này đã lỗi thời. Vì bây giờ Việt Nam đã có quan
hệ với Mỹ, làm ăn với nhiều nước trên thế giới. Và Việt Nam cũng thay đổi rất
nhiều, các tiêu chí về dân chủ, nhân quyền quy định trong Hiến pháp Việt Nam
đang được thực hiện rất nghiêm ngặt. Nhiều người khác nói rằng, Việt Nam đã
thay đổi, đất nước phát triển và quan trọng nhất là người dân hài lòng, nên
việc gì phải chống phá theo kiểu lật đổ. Mà lật đổ cái gì? Lật đổ sao được khi
mà dùng bạo lực hay sử dụng bất cứ thứ gì thì cũng chỉ làm thiệt hại cho mình,
hoặc rủ rê, xúi giục người khác thì cũng chỉ làm hại cho họ mà thôi.
Nổi
lên trong rất nhiều chỉ trích của những người nói trên đối với chính quyền Việt
Nam suốt mấy chục năm qua là các vấn đề tự do, một trong số đó là tự do ngôn
luận. Từ trước đến giờ, nhiều người nói Việt Nam bóp nghẹt thông tin, như Báo
cáo Nhân quyền thường niên năm 2020 của Bộ Ngoại giao Mỹ, nhận định về vấn đề
dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam, thậm chí trong các cuộc hội thảo, đối thoại về
nhân quyền cũng hay đề cập đến tự do Internet ở Việt Nam, tự do báo chí, tự do
tín ngưỡng... Và Việt Nam luôn phản bác những điều này. Cụ thể là dân số Việt
Nam hơn 90 triệu người thì có tới trên 60 triệu người có tài khoản mạng xã hội,
thông tin liên lạc thoải mái, không bị cấm đoán. Ở Việt Nam có khoảng 900 cơ
quan báo chí, hàng chục nghìn phóng viên. Trước kia, người ta nói rằng Việt Nam
bưng bít thông tin, đất nước khá khép kín, nhưng tại thời điểm đó Việt Nam bị
bao vây và cấm vận, rất ít thông tin về Việt Nam, người nước ngoài đến Việt Nam
cũng rất ít. Năm 1995, Việt Nam đã mở cửa kinh tế với Mỹ và sau đó đón khách
nước ngoài, có hàng loạt hoạt động giao thương với các nước. Thời điểm mới mở
cửa, kinh tế Việt Nam rất khó khăn, nhiều người phải mưu sinh bên lề đường. Có
người nói Việt Nam sợ đưa các hình ảnh đó ra nước ngoài, phản ánh rằng Việt Nam
không dám mở cửa quá rộng, sẽ kiểm soát nghiêm ngặt, người có máy quay phim
phải khai báo, thậm chí phải xin phép, kể cả băng vi-đê-ô, máy chụp hình cũng phải
xin phép. Nhưng thực tế càng lúc Việt Nam càng thay đổi. Hiện ghi hình kỹ thuật
số rất phát triển, từ điện thoại “cục gạch” đến giờ là điện thoại có chế độ
chụp hình. Lúc đầu nhiều người nhận định Việt Nam sẽ cấm, không cho dùng điện
thoại thông minh, vì sợ nhiều người sẽ chụp lung tung, những tiêu cực, mặt trái
trong xã hội sẽ bị ghi hình, trong ngoài nước liên lạc với nhau thoải mái sẽ
chuyển cho nhau. Đó là cách tuyên truyền ở bên này, và người ta nói “cộng sản
chết chắc rồi”. Không cho sử dụng phương tiện là vi phạm nhân quyền, không dám
tiếp cận thông tin, nếu cho phép thì “cộng sản chết chắc luôn” vì “cộng sản là
giả dối, giấu thông tin, không dám nói sự thật”! Nhưng chúng ta thấy chính
quyền Việt Nam không những không cấm mà còn cho dùng thoải mái, thậm chí một
người dùng hai chiếc điện thoại. Ở Mỹ rất ít người sử dụng hai điện thoại,
trong khi ở Việt Nam, từ 5-7 năm trước, nhiều người đã có hai chiếc điện thoại.
Họ dùng để kết nối Internet, và internet phủ khắp Việt Nam, cả vùng sâu, vùng
xa.
Trước
đây muốn tìm hiểu thông tin trong nước, thông tin nước ngoài, nhiều người
thường tìm đến những đài Việt ngữ ở nước ngoài để nghe. Ở đó có bàn về các vấn
đề của Việt Nam. Nhưng giờ có Internet rồi thì ở trong nước sẽ hiểu hết những
vấn đề sai trái, trong khi ở bên ngoài thì vẫn ra sức tuyên truyền và sử dụng
làm vũ khí. Họ bàn thảo và nói rằng “cộng sản Việt Nam sụp đổ đến nơi”! Trong
những cuộc hội thảo như vậy có nhiều vấn đề đặt ra, như hiện trạng đất nước
Việt Nam, xu hướng hiện nay, tình hình của Mỹ và hành động của chúng ta,... họ
nói đủ thứ chuyện. Họ đánh giá ở Việt Nam sẽ không có tự do ngôn luận, sẽ bóp
nghẹt thông tin, sẽ ngăn chặn Internet song cuối cùng chúng ta thấy Việt Nam đã
làm ngược lại. Các tổ chức quốc tế xếp mức độ tự do Internet của Việt Nam cùng
hạng với Thái lan, Malaixia, Inđônêxia là các nước cùng trong khu vực. Từ điều
này chúng ta thấy, nếu muốn chỉ trích thì cần phải dựa trên nhiều cơ sở. Ở Việt
Nam việc công khai thông tin càng lúc càng rộng rãi hơn. Người Việt tại Mỹ có
thể gọi điện hàng ngày về cho bà con ở Việt Nam qua Zalo, Viber... Thông tin
qua lại giữa hai bên mọi người đều biết.
Tương
tự như vậy, các vấn đề thời sự trên thế giới như thế nào thì ở Việt Nam đều
biết. Trước đây người ta nói Việt Nam sàng lọc thông tin, làm những tường lửa,
ngăn chặn rất nhiều; thậm chí về kiểm duyệt thông tin, họ nói Việt Nam có 800
đến 900 tờ báo nhưng “chỉ có một tổng biên tập” và phải nói một tiếng nói
chung. Sau này chúng ta thấy không phải như vậy. Rất nhiều cuộc biểu tình, đảo
chính, tấn công ở Trung Đông, Xy-ri, Miến Điện,... đều đã được báo chí Việt Nam
đăng tải, dịch đăng nguyên văn các bài viết trên báo chí nước ngoài. Việc trong
nước mở cửa thông tin như vậy càng giúp ích cho họ hơn, cho thấy càng mở cửa
càng bền vững. Điều này nghe thì có vẻ nghịch lý nhưng sự thật là như vậy.
Trình độ nhận thức của người dân Việt Nam giờ rất khác, không giống như những
người đấu tranh ở bên này. Họ nghe nhiều, biết nhiều và biết nhìn nhận bản chất
vấn đề của các sự việc diễn ra trên thế giới.
Khi
có thông tin nhiều chiều, người Việt Nam ở trong nước thậm chí còn cảm thấy bị
hụt hẫng với mấy người chống cộng bên Mỹ. Bởi trước kia liên lạc chỉ qua thư
từ, người ở trong nước không biết bên Mỹ như thế nào, họ thấy mấy ông Việt Nam
ở bên đó ghê quá, lập ra những hội đoàn chống cộng này nọ, nào là có mấy sư
đoàn, nào là các ông tướng, ông tá nghe dễ sợ. Trước kia chỉ nghe qua mấy cái
đài phát thanh Việt ngữ phát theo kiểu đánh bóng, tâng bốc lẫn nhau. Giờ phủ
sóng internet, thông tin thoải mái, người ta mới thấy những cuộc phỏng vấn, hội
thảo, các cuộc họp của tổ chức chống cộng này kia mà thành viên chửi nhau, đánh
nhau, cãi nhau như mổ bò. Chính những điều đó tạo ra những hình ảnh nhếch nhác,
cảm giác hết sức ê chề, buộc phải đặt ra câu hỏi: Những người chống cộng mấy
chục năm vừa qua làm được gì? Nghe nói tổ chức, hội đồng dữ dằn lắm, nhưng trụ
sở có không, nhân sự bao nhiêu người? Thậm chí có người trong tổ chức cãi nhau,
rồi đem nhau ra tòa, cãi nhau không được thì giành quyền với nhau, tiến công cá
nhân thay vì tranh luận về quan điểm. Hồi chưa có YouTube, nghe phát biểu thấy
dữ dằn quá, chủ tịch đảng này đảng kia tưởng sâu sắc lắm, giờ có YouTube, người
ta mới thấy sao lại nói lung tung xà ngầu, nhận thức rối loạn, thậm chí khi chỉ
trích Việt Nam thì không biết gì, nói lung tung hết! Ở Mỹ, việc chửi nhau, tấn
công cá nhân theo luật pháp là sai, nhưng chẳng lẽ thưa kiện suốt ngày? Thưa
kiện người có máu mặt, có tài sản có khi còn được bồi thường, nhưng thưa kiện
mấy người thất nghiệp, không có gì hết thì thưa kiện họ để làm cái gì? Những kẻ
điên khùng làm sao mình kiện được? Cuối cùng, người ta không kiện bởi không
muốn dính vào mấy việc đó, coi như không quan tâm. Còn ở Việt Nam, nếu làm
những việc đó sẽ bị xử lý thích đáng, vì luật pháp Việt Nam quy định rất rõ,
song đến bây giờ nhiều người vẫn không hiểu luật pháp Việt Nam. Tranh cãi nhau
về quan điểm, họ nghĩ họ có quyền tự do nên bắt đầu công kích cá nhân, thóa mạ,
vu khống, làm nhục nhau, xâm phạm quyền lợi của người khác rất thô bạo. Ở Việt
Nam, thưa kiện những việc như vậy trước tòa sẽ được xử lý, như thời gian vừa
qua, việc lợi dụng Facebook để xúc phạm nhau đã bị xử lý. Điều này đã cho thấy
sự cần thiết phải có cách chữa trị bằng hệ thống luật pháp.
Chúng
ta thấy những tuyên truyền về quan điểm hay tiêu chí nọ kia ở Mỹ hay tại nước
này nước khác để dạy dỗ người dân Việt Nam phải thế này thế kia là những điều
không tương ứng. Việt Nam siết chặt như vậy là đúng, vì nếu không kiểm soát,
các thông tin giả dối, xuyên tạc, dựng chuyện,… sẽ làm loạn ngay lập tức. Ngay
tại Mỹ cũng có những trang dựng chuyện rất nhiều, những tờ báo lá cải, những
chương trình rất tồi tệ, muối mặt làm đủ mọi thứ chuyện để câu view (lượt xem),
bán báo. Tự do ở Mỹ là tự do mà nhiều nước không mong muốn, trong khi đó họ lại
cứ áp đặt Việt Nam phải thế này thế kia thì mới đúng. Họ yêu cầu Việt Nam phải
cho người ta dựng chuyện, tha hồ bôi xấu, chửi bới nhau mà không được bắt bớ vì
đó là vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do ngôn luận! Điều đó có đúng hay không?
Và qua đây chúng ta thấy ở Việt Nam, quá trình dân chủ, nhân sinh, nhu cầu hạnh
phúc của người dân càng lúc càng thăng tiến hơn so với trước kia, càng lúc càng
đầy đủ hơn. Đó mới là điều đáng mừng. Cần phải hiểu rằng dân chủ không phải như
thức ăn, như vật chất hễ đặt xuống là người nào cũng có món ăn ngon, mà cần
phải có sự “chế biến”, và càng lúc người ta càng có những đòi hỏi cao hơn,
thăng tiến hơn, phải phù hợp với điều kiện của nền kinh tế./.
Đăng nhận xét