Một trong những nguyên nhân chủ quan cơ bản gây nên tình trạng suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã được Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII chỉ rõ là do bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi. Mắc bệnh cá nhân chủ nghĩa cũng là biểu hiện đầu tiên trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống.
Căn
bệnh này ngày càng có những biểu hiện tinh vi, phức tạp, gây ra những hệ lụy
tai hại, làm nhức nhối dư luận xã hội. Do đó, việc kịp thời nhận diện, vạch mặt
chỉ tên những biểu hiện nổi cộm của nó là việc làm cấp thiết trong tình hình
hiện nay.
Những
biểu hiện không thể xem thường của bệnh cá nhân chủ nghĩa
Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra 10 loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá
nhân, gồm: Bệnh quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh
hiếu danh; bệnh “hữu danh, vô thực”; bệnh cận thị (tức là chỉ chú ý đến cái nhỏ
nhặt, vụn vặt, không thấy cái lớn, cái quan trọng); bệnh tị nạnh; bệnh xu nịnh,
a dua và bệnh kéo bè kéo cánh(1).
Ngoài
những bệnh nêu trên, những năm gần đây, bệnh cá nhân chủ nghĩa còn nảy sinh một
số biểu hiện không thể xem thường, nhất là các biểu hiện như cơ hội, thực dụng,
"mũ ni che tai", đề cao “cái tôi” cá nhân thái quá...
1.
Cơ hội. Theo quan niệm thông thường, cơ hội thường được hiểu là biết tận dụng
thời cơ để hành động đạt mục đích, kết quả cao nhất. Tận dụng cơ hội tốt để làm
việc nghĩa, việc thiện là cử chỉ, hành động rất đáng khích lệ.
Tuy
nhiên, thời gian qua, một bộ phận cán bộ, đảng viên đã lợi dụng những kẽ hở
trong cơ chế, chính sách, luật pháp và những sơ hở trong công tác quản lý, điều
hành của bộ máy công quyền, coi đó như thời cơ “đục nước béo cò” nhằm vơ vét
tài sản, tiền bạc của Nhà nước và nhân dân. Cũng xuất phát từ chủ nghĩa cơ hội
mà sinh ra bao thứ phiền toái: Nịnh hót, luồn lọt, tâng bốc nhau “một tấc lên
trời”, kéo bè kéo cánh, cục bộ địa phương, bao che khuyết điểm, dung dưỡng cái
xấu, thậm chí tiếp tay cho cả cái ác. Những kẻ cơ hội được người đứng đầu Đảng
ta đã ví như “con lươn, con chạch”-loài vật mà người ta hay liên tưởng đến
những kẻ ra luồn vào cúi, sống lươn lẹo, uốn éo, thoắt ẩn thoắt hiện, khó nắm
bắt. Những biểu hiện cơ hội này tuy không dễ “bắt tận tay, day tận mặt”, nhưng
rất nguy hại.
2.
Thực dụng. Từ “thực dụng” có nghĩa ban đầu là coi trọng tính ứng dụng trong
thực tế.
Sau
này từ “thực dụng” để chỉ những người luôn đề cao lợi ích vật chất, thậm chí
coi đồng tiền là chiếc “chìa khóa vạn năng” trong việc giải quyết mọi mối quan
hệ xã hội. Thiếu coi trọng ý nghĩa tinh thần và giá trị văn hóa, đạo đức nên
những người thực dụng sẵn sàng hạ thấp nhân cách bản thân để mưu cầu, trục lợi
cho mình. Một biểu hiện thực dụng khác ở một bộ phận cán bộ, đảng viên là kén
chọn chức danh, nhắm tới vị trí công tác có thể “hái ra tiền”, thậm chí có tư
tưởng “đầu gà hơn má lợn”-tức là thà làm “quan nhỏ” mà có bổng lộc còn hơn là
làm chuyên viên, trợ lý ở cơ quan cấp trên chủ yếu sống bằng tiền lương. Thế
nên, những người này thường tìm mọi cách để không phải chuyển sang vị trí khác,
kể cả vị trí cao hơn, nếu vị trí đó không mang lại nhiều lợi ích vật chất cho
họ.
3.
“Mũ ni che tai”. Trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhiều người có bản lĩnh,
phong cách và tư cách sống đàng hoàng; sống nhân nghĩa, trung thực, không cầu
cạnh, bon chen, ích kỷ, vụ lợi. Đó là những vẻ đẹp đạo đức của những cán bộ,
đảng viên chân chính.
Tuy
nhiên, xuất phát từ động cơ thiếu lành mạnh, một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện
nay không dám sống trung thực với chính bản thân. Thấy cái đúng không biết bảo
vệ, thấy cái sai không dám đấu tranh, họ thực hiện phương châm “im lặng là
vàng” và “gió chiều nào theo chiều ấy”. Trong sinh hoạt Đảng, họ hiếm khi tự
giác, xung phong phát biểu ý kiến, nếu có thì cũng chỉ nói dăm ba câu cho “phải
phép”. Trước một vấn đề nhạy cảm cần có sự quyết đoán, nhưng khi cơ quan lấy ý
kiến và biểu quyết, họ thường “ngó ngang, nhìn dọc” rồi mới giơ tay sau cùng.
Thái độ dè dặt, bạc nhược như thế cũng xuất phát từ thói ích kỷ cá nhân mà ra.
4.
Đề cao “cái tôi” cá nhân thái quá. Đây là biểu hiện nổi cộm của bệnh gia
trưởng, độc đoán, chuyên quyền của một bộ phận cán bộ có chức quyền. Biểu hiện
khá phổ biến là không ít cán bộ nhận thức chưa thấu đáo, giải quyết không đúng
mực mối quan hệ “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”, mà thực chất là coi nhẹ,
hạ thấp vai trò lãnh đạo của tập thể, trong khi lại đề cao vị trí của bản thân,
lợi dụng chức quyền của mình để lèo lái, chi phối, thậm chí lấn át cả tập thể
cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Trong
giải quyết các mối quan hệ với nội bộ tập thể hay khi phát biểu tại các buổi
sinh hoạt đảng, chính quyền, nhiều cán bộ lãnh đạo coi ý kiến của mình có sức
nặng vượt trội, còn ý kiến tham gia của người khác là chỉ là phụ, không quan
trọng, nghe rồi bỏ ngoài tai. Thực tế cho thấy, phần lớn những cán bộ lãnh đạo
mắc sai phạm, kể cả nhiều cán bộ cao cấp bị kỷ luật trong thời gian qua đều ít
nhiều xuất phát từ thái độ, tác phong làm việc duy ý chí, áp đặt cá nhân, đề
cao “cái tôi” thái quá, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, không
chịu lắng nghe những lời đóng góp thẳng thắn của cán bộ, nhân viên cấp dưới và
quần chúng.
Quyết
liệt đấu tranh đẩy lùi các biểu hiện cá nhân chủ nghĩa
Con
người cá nhân và xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người với tư
cách là chủ thể của xã hội mà hành động theo quy luật sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển xã hội và ngược lại. Con người phát triển toàn diện và hài hòa
trong chế độ XHCN là con người biết kết hợp hài hòa giữa 3 lợi ích là cá
nhân-tập thể-xã hội. Đảng ta đã xác định lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp
cho sự phát triển. Tuy nhiên, việc tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân hay coi lợi
ích cá nhân là động lực duy nhất thì đó là tư tưởng cực đoan, dễ sa ngã vào chủ
nghĩa cá nhân ích kỷ.
Chúng
ta xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh nhiều tàn dư lạc hậu của chế độ xã
hội cũ chưa bị xóa bỏ hoàn toàn, trong khi những cái mới, cái tiến bộ, văn minh
của chế độ xã hội mới chưa thực sự trở thành yếu tố bao trùm, chi phối đời sống
tinh thần của quốc gia-dân tộc. Mặt khác, theo các nhà nghiên cứu văn hóa,
trong tâm lý nhân cách của một bộ phận cán bộ, đảng viên ở nước ta hiện nay vẫn
còn tồn tại, đan xen nhiều đặc điểm tâm lý phức tạp. Đó là tâm lý tiểu nông
manh mún, vụn vặt của con người thời phong kiến; tâm lý quan liêu, bảo thủ của
con người thời bao cấp; tâm lý cơ hội, thực dụng, ích kỷ của con người thời
kinh tế thị trường. Các đặc trưng tâm lý đó chính là những bất cập, hạn chế
trong nhân cách, từ đó dẫn đến những thái độ, hành vi, việc làm mang nặng tính
cá nhân chủ nghĩa-một điều rất xa lạ với chuẩn mực nhân cách của con người Việt
Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Trong
khi đó, trước những tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập thế giới và nền
kinh tế thị trường, nhiều giá trị văn hóa, đạo đức bị đảo lộn; thái độ tôn sùng
vật chất, coi trọng tiền bạc, danh vọng cũng khiến nhiều người sa vào vũng lầy
của chủ nghĩa cá nhân. Suy cho cùng, những biểu hiện như cơ hội, thực dụng,
"mũ ni che tai", đề cao “cái tôi” cá nhân thái quá, vừa là nguyên
nhân sâu xa vừa là hệ quả tất yếu của bệnh cá nhân chủ nghĩa nảy sinh, làm vẩn
đục môi trường văn hóa xã hội, làm mọt ruỗng văn hóa công quyền và đạo đức công
vụ.
Trước
thực trạng đó, việc cần làm hiện nay là phải có các biện pháp đồng bộ, quyết
liệt để phòng, chống, đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa. Trước hết, cần đẩy mạnh
tuyên truyền, giáo dục mọi cán bộ, đảng viên nhận thức rõ những biểu hiện mới
và tác hại nghiêm trọng của bệnh cá nhân chủ nghĩa trong tình hình hiện nay.
Quan tâm chú trọng giáo dục cán bộ, đảng viên đề cao lòng tự trọng, văn hóa liêm
sỉ, đây là vấn đề được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhắc nhở: “Mỗi
cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập, ra sức tu dưỡng, rèn luyện để không
ngừng nâng cao nhận thức, trình độ, trở thành những con người có văn hóa, có
liêm sỉ”(2). Những người giàu lòng tự trọng, thấm nhuần các giá trị văn hóa tốt
đẹp của ông cha và những phẩm chất đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư” sẽ tự phòng ngừa được bệnh cá nhân chủ nghĩa.
Nêu
gương không chỉ là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng, mà còn là một
trong những phương pháp rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng
viên. Vì vậy, để góp phần đẩy lùi bệnh cá nhân chủ nghĩa, đội ngũ cán bộ, đảng
viên, nhất là người đứng đầu các cấp cần thấm nhuần sâu sắc và thực hiện nghiêm
túc Quy định số 47-QĐ/TW ngày 01-11-2011 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về
“Những điều đảng viên không được làm”; Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07/6/2012 của
Ban Bí thư khóa XI về “Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp”; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 về “Một số
việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy
định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về
“Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính
trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng”.
Một
biện pháp cần phải làm thường xuyên, bền bỉ là thực hiện nghiêm túc, thực chất,
hiệu quả nguyên tắc, chế độ tự phê bình và phê bình gắn với làm tốt công tác
kiểm tra, giám sát; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh cán bộ, đảng viên
mắc trọng bệnh cá nhân chủ nghĩa, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển lành
mạnh của tổ chức, cơ quan, đơn vị và lợi ích quốc gia-dân tộc.
Giải
pháp căn cơ là chăm lo, bồi dưỡng, đãi ngộ tương xứng cả về lợi ích vật chất và
tinh thần cho cán bộ, đảng viên phù hợp với từng cương vị công tác, công việc
chuyên môn, tính chất ngành nghề; đồng thời xây dựng môi trường làm việc dân
chủ, nhân văn, bầu không khí nội bộ trong các tổ chức, cơ quan, đơn vị thật sự
lành mạnh. Vì suy cho cùng, bệnh cá nhân chủ nghĩa sẽ dần bị triệt tiêu khi
chúng ta xây dựng được nền tảng vật chất, văn hóa xã hội hội tụ những giá trị
tiến bộ, văn minh của thể chế chính trị ưu việt để góp phần bảo đảm lợi ích hài
hòa giữa cá nhân, tập thể và xã hội./.
Đăng nhận xét