Kẻ sĩ là người
hiền tài, mà “hiền tài là nguyên khí của quốc gia” (câu nói của Thân Nhân Trung
thời nhà Lê). Thời Phong kiến, kẻ sỉ luôn lấy Đạo tam cương, ngũ thường là
rường cột của mọi mối quan hệ đạo đức - xã hội; đó là những chuẩn mực tất
nhiên, bất biến và được tuân thủ một cách nghiêm ngặt cả trên phương diện tư
tưởng và cuộc sống. Trong ba mối quan hệ quân - thần, phụ - tử, chồng - vợ, hai
mối quan hệ đầu được kẻ sỉ coi trọng. Kẻ sỉ coi đức trung và đức hiếu là hai
giá trị căn bản nhất xác định giá trị của con người; họ trung thành với vương
triều, đáp ứng những đòi hỏi mà triều đình đặt ra trong quản lý điều hành đất
nước, góp phần củng cố và xây dựng nhiều giá trị về văn hoá và đạo đức. Trong
thời đại ngày nay không còn quan hệ vua - tôi thì đó chính là “lòng trung thành
với tổ quốc, với nhân dân và với chế độ đã đem lại độc lập, tự do, cơm ngon, áo
đẹp như ngày nay”. Thời nào cũng thế, đã là kẻ sĩ thì phải lấy trung, hiếu làm
trọng, phải là những người “giàu sang không thể cám dỗ, nghèo khó không thể
chuyển lay, quyền uy không thể khuất phục”.
Đồng thời, kẻ sĩ trong hoàn cảnh nào cũng phải luôn nuôi
dưỡng chí khí lớn lao, phải gánh vác trọng trách với non sông đất nước và luôn
luôn kiên trì ý chí anh hùng. Kẻ sĩ dám chấp nhận mọi khó khăn để thực hiện bổn
phận, trách nhiệm với non sông; có vị trí cao và vai trò quan trọng trong xã
hội, có tài trị nước an dân, có bổn phận nặng nề nhưng vẻ vang đó chính là kẻ
sĩ “QUÂN TỬ”. Nước Việt hơn 4000 năm văn hiến có biết bao nhiêu kẻ trí sĩ đem
tài năng của mình để kinh bang tế thế, định quốc an dân; thời Lý có Lý Thường
Kiệt, Lý Đạo Thành, thời Trần có Hưng Đạo vương Trần quốc Tuấn, thời Lê có
Nguyễn Trãi, triều đại Tây sơn có Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Thiếp...Trong thời đại
Hồ Chí Minh có biết bao kẻ sĩ dấn thân vì đại nghiệp giải phóng dân tộc, từ bỏ
vinh hoa, phú quý để đồng hành cùng dân tộc; góp sức lực và trí tuệ của mình
vào sự nghiệp thống nhất nước nhà; ví như giáo sư Trần Đại Nghĩa, kỹ sư luyện
kim Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước từ bỏ nơi gấm hoa để theo Bác Hồ về nước
đóng góp vào sự nghiệp chung đó là rửa mối nhục nô lệ của dân tộc. Những anh
hùng, danh nhân của đất nước, những kẻ sỹ đó mới đích thực là bậc chính nhân
quân tử, đại nhân, đại đức, đại trí, đại nghĩa; là mặt trời chân lý mãi rọi
sáng đường cho con cháu bước theo.
Đối lập với bậc nhân sĩ chính nhân quân tử là những kẻ mang
danh kẻ sĩ nhưng thực chất là đám “kẻ sĩ” lưu manh và đê tiện, có thể gọi là
“TIỂU NHÂN MƯỢN DANH KẺ SĨ”; những kẻ đó thời nào cũng có; ví như thời Trần có
Hoàng tử Trần Ích Tắc, văn hay, chữ tốt; cầm, kỳ, thi, họa đều tự cho mình là
tài giỏi nhất nhưng khi giặc đến thì co thân, uốn gối đầu hàng giặc, chống lại
đất nước, Thời Lê có Vua Lê Chiêu Thống mượn rước giặc Thanh vào tàn phá sơn hà
chỉ để thỏa cái ước nguyện hèn mọn của mình; Ngô Đình Diệm, Nguyễn Văn Thiệu
hết theo Pháp đến Phò Mỹ, can tâm làm bù nhìn, tay sai cho ngoại bang để giày
xéo non sông đất nước và chia đôi giang sơn muôn dặm của tổ tiên để lại; những
kẻ trên đều bụng chứa một bồ kinh luân nhưng ôm dạ phản trắc, thấy lợi nhỏ quên
nghiệp lớn, bán rẻ tổ quốc và luôn có tư tưởng thờ ngoại bang.
Dường như cái tư tưởng theo đóm ăn tàn, khom lưng, uốn gối,
cúi đầu thưa dạ ấy di truyền đến ngày nay, dù không có họ hàng hay huyết thống;
những người tự rêu rao cho mình là “nhân sỹ, trí thức, học cao, biết rộng; trên
thông thiên văn, dưới tường địa lý nhưng có một điều chắc chắc là trung hiếu,
sỹ nhục những cái làm nền tảng để làm nên kẻ sĩ thì họ lại không hề có được. Đó
là bọn tiểu nhân khi mang thân dê chó đãi thờ ngoại quốc, uốn lưỡi cú diều mà
chê bai, bôi nhọ chế độ đã rửa cái nhục nộ lệ cho đất nước, chế độ đã dẫn dắt
con thuyền độc lập, tự do đến với bến bờ hạnh phúc như hôm nay.
Đồng ý là xã hội này vẫn còn tồn tại nhiều mặt chưa tốt;
vẫn còn tiêu cực, tham nhũng, hách dịch và bất cập nhưng tại sao với một bồ
kinh luân trong bụng, các vị ấy lại không mang ra để đóng góp cho đất nước trên
tinh thần xây dựng mà rõ ràng tổ quốc này rất cần những kẻ sĩ để đưa đất nước
rửa cái nhục lạc hậu mà lại trở cờ, hại dân, phản quốc, can tâm phò trợ ngoại
bang, khúm núm và tôn thờ cái thây ma đã thối rửa đó là bọn ngụy quân - ngụy
quyền, đám tàn binh, thất tướng đang ngày đêm chống phá đất nước ta. Các vị nên
nhớ Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền và quyền tự quyết về vận
mệnh của mình và chắc chắn để phát triển thì không thể và không bao giờ chịu lệ
thuộc vào một ngoại bang nào khác mà phải trên tinh thần đoàn kết dân tộc để
chung tay xây dựng cơ đồ để cho “giang sơn muôn thủa vững âu vàng”. Chúng ta
sẵn sàng là bạn với các nước, tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế nhưng không cho
phép bất cứ thế lực nào can thiệp vào chuyện nội bộ của nước ta; nếu có thì
chúng nhất định có cái kết giống như thực dân Pháp và đế quốc Mỹ và bè lũ bành
trướng xâm lược đã nhận.
Ở đời sự phân biệt giữa quân tử và tiểu nhân không chỉ ở
địa vị xã hội, ở học thức, mà cái chính là ở phẩm chất đạo đức, ở phong cách
sống và thái độ ứng xử, ở mục đích và lý tưởng sống. Kẻ sỹ xưa luôn “coi trọng
điều liêm sỉ”. Sống chính trực và biết hổ thẹn với người và với chính mình, để
giữ được mình, được nhà, được nước. Đó là truyền thống của sỹ phu Đại Việt. Bậc
chính nhân “Xả thân dĩ thủ nghĩa”, “Hữu xạ tự nhiên hương” - Cứ việc nghĩa mà
làm, hay dở thiên hạ biết. Cần chi phải vỗ ngực xưng tên ta đây là tây học là
đỉnh cao của trí tuệ, dân chủ, dân quyền? Sự nghiệp mình làm là trả nghĩa cho
đời, xác thân lại về nguồn cội; tiền tài, danh vọng mà các ngươi nhận được từ
các tổ chức phản động ở nước ngoài rồi cũng chỉ là thứ hư không khi các ngươi
về với lòng đất hòa mình cũng cát bụi.
Người quân tử luôn tôn cao phẩm giá của mình trong mọi hoàn
cảnh. Còn kẻ tiểu nhân trong lúc thái quá hay trong lúc nguy nan, khốn khó
thường đánh mất nhân phẩm của mình. Vậy nên cổ nhân mới có câu "Người quân
tử trông cậy ở mình, tiểu nhân trông cậy ở người"; nghĩa là kẻ tiểu nhân
đội danh :kẻ sĩ” như các ngươi, do ý chí nhu nhược và tư tưởng đớn hèn luôn
rình mò để chực bán nước, để phò ngoại bang cho ấm cái thân dê chó của các
ngươi. Các ngươi kích động đánh tàu, bài tàu nhưng chắc chắn nếu có họa binh đao
thì nhân dân Việt Nam là những người thiệt thòi nhất, đau đớn nhất; bài học của
Sirya, Lybia, Irap ...là bài học quý giá trước mắt, chỉ lũ theo Tây chúng mày
là được tha hồ nhai bơ thừa và nuốt sữa cặn đầy bụng mà thôi.
Nhiều Giáo sư, tiến sỹ, học giả, trí thức, giảng viên, nhà
khoa học, nhà kinh tế… theo đám dân chủ giả cầy hiện nay đa số về hưu, hoặc là
đang công tác nhưng bất mãn vì không được trèo cao, chui sâu nên đã trở cờ phản
bội; suy cho cùng là các ngươi hám danh, hám lợi mà thôi; các ngươi trên không
lo báo ơn nước, lấy trí tuệ của mình mà xây dựng quốc gia đó là bất trung; phản
bội lý tưởng mình đã chọn, cha anh là long hổ lại sinh ra giống phản phúc, trở
cờ, đi ngược lại với con đường mà cha anh các ngươi đã chọn, đã phục vụ đó là
bất hiếu; nhân danh “trí thức” mà bất trung, bất hiếu thì liệu có xứng làm con
dân của một dân tộc độc lập, tự do. Sau này xuống suối vàng các ngươi còn mặt
mũi nào mà đi gặp tiên phụ, tổ tiên của các ngươi.
Còn nữa những việc làm phản dân, hại nước của các ngươi ngày
hôm nay sẽ được hậu thế nguyền rủa, đả kích, con cháu các ngươi muôn đời chịu
nhục, than ôi vì háo danh mà đành chịu nhục trước muôn dân./.
Đăng nhận xét