Trong cuốn sách của mình đồng chí Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đánh giá một cách khách quan, khoa học về tiềm năng, giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đang có nhiều thành tựu, tuy vậy, chủ nghĩa tư bản không phải là điểm dừng cuối cùng của lịch sử nhân loại. Loài người tất yếu tiến tới chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng chí Tổng bí thư khẳng định: Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay và cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học và công nghệ. Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện pháp điều chỉnh, hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn trước. Từ giữa thập kỷ 70 của thế kỷ XX và nhất là từ sau khi Liên Xô tan rã, để thích ứng với điều kiện mới, chủ nghĩa tư bản thế giới đã ra sức tự điều chỉnh, thúc đẩy các chính sách “tự do mới” trên quy mô toàn cầu, nhờ đó hiện vẫn còn tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Đặc biệt, năm 2008-2009, chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản phương Tây đã bơm những lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp công nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khoán, nhưng không mấy thành công.
Và
hôm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều mặt, cả về y tế, xã hội
lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại dịch Covid-19 và cuộc
cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thoái đã làm phơi bày sự thật của
những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ nghĩa: Đời sống của đa số dân
cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu -
nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các
“sắc tộc”. Những tình huống “phát triển xấu”, những nghịch lý “phản phát
triển”, từ địa hạt kinh tế - tài chính đã tràn sang lĩnh vực xã hội, làm bùng
nổ các xung đột xã hội ở không ít nơi từ tình huống kinh tế đã trở thành tình
huống chính trị với các làn sóng biểu tình, bãi công, làm rung chuyển cả thể
chế. Sự thật cho thấy, bản thân thị trường tự do của chủ nghĩa tư bản không thể
giúp giải quyết được những khó khăn, và trong nhiều trường hợp còn gây ra những
tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo; làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa lao
động và tư bản toàn cầu. Sự thật đó cũng làm phá sản những lý thuyết kinh tế
hay mô hình phát triển vốn xưa nay được coi là thời thượng, được không ít các
chính sách tư sản ca ngợi, được các chuyên gia của họ coi là tối ưu, hợp lý.
Đồng
thời với việc phê phán một cách khách quan, khoa học về sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản nêu trên, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: Cùng với khủng hoảng
kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái,… đang đặt
ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và phát triển của nhân loại. Đó
là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục
tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm
thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là
những đặc trưng cốt yếu của phương thức sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa.
Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra một lần nữa chứng minh tính không bền vững cả
về kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái của nó. Theo nhiều nhà khoa học phân
tích, các cuộc khủng hoảng hiện nay không thể giải quyết được một cách triệt để
trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa.
Các
phong trao phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển
trong thời gian qua càng làm bộc lộ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị
tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự
do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để
quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân- yếu tố bản
chất nhất của dân chủ.
Hệ
thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích
của các tập đoàn tư bản lớn. Một bô phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số,
nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn
tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi
phối toàn xã hội. Đây là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trao “99 chống lại 1”
diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự rêu
rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực
hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng mà không
thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối
thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át. Vì vậy mà tại các nước tư bản phát
triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính
phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị; đằng sau hệ thống đa
đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản.
Như
vậy, tất yếu, với bản chất và những mâu thuẫn nội tại vốn có, hiện hữu, trong
lòng chủ nghĩa tư bản đang ủ chứa những giới hạn mà tự bản thân phương thức sản
xuất này không thể khắc phục được, việc nhân loại tiến lên trình độ phát triển
mới, thay thế chủ nghĩa tư bản là tất yếu khách quan. Trong quá trình đó, sự
phát triển của Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội là hoàn toàn phù hợp với tất
yếu khách quan như vậy. Lẽ dĩ nhiên, việc phát triển của chúng ta, trên cơ sở
nội lực là quyết định, việc kế thừa những thành tựu văn minh nhân loại đã đạt
được là cần thiết.
Đăng nhận xét