Văn học, nghệ thuật (VHNT) là lĩnh vực tinh thần đặc thù gắn liền với cái tôi chủ thể, sáng tạo bằng cái tôi cá nhân. Cái tôi phải hằn rõ mới có thể làm nên cái cá biệt, cái riêng, vốn là những tiền đề cơ bản để tạo ra cái bản sắc.
Với
một tác phẩm nghệ thuật, nếu không có bản sắc thì thiếu sức sống, nhợt nhạt, ít
giá trị. Một nền văn hóa lớn cố nhiên vừa là sự tổng cộng số học, vừa là sự
tích hợp, tiếp biến của nhiều tác phẩm có bản sắc. Nói tổng cộng, số học là nói
về hình thức, cái thấy được; nói sự tích hợp, tiếp biến là nói về giá trị nội
dung (nhất là giá trị văn hóa). Các tác phẩm lớn luôn có sức ảnh hưởng, chi
phối, thậm chí trở thành “mẫu gốc” vượt cả không gian và thời gian. Nhìn ở góc
độ nào cũng thấy sự cần thiết của cá tính nghệ sĩ vì nếu thiếu thì không thể có
tác phẩm giá trị. Những nghệ sĩ lớn trước hết là những cá tính độc đáo.
Nghệ
sĩ vẫn là con người, phải sống với đời thực, phải sinh hoạt, học tập, quan hệ
xã hội... nhưng thiên chức của anh ta là tạo ra “cuộc sống thứ hai”, tức tác
phẩm. Anh ta phải sống, phải “đi, về” giữa hai thế giới, thế giới của đời thực
và thế giới trong tưởng tượng với những nhân vật, hình tượng, chi tiết...
Người
ta hay dùng các từ “phân thân”, “hóa thân”, “nhập thân”... khi nói về quá trình
sáng tạo là vì vậy. Dựa vào đặc trưng này, tâm lý học nghệ thuật hiện đại cho
rằng nghệ sĩ dễ sa vào tình trạng đa nhân cách, thất thường, dễ ảo tưởng, hay
xúc động, cực đoan... Đây sẽ là điểm yếu khi có người thiếu bản lĩnh, dễ bị kẻ
xấu lợi dụng, dụ dỗ, lôi kéo, lừa gạt... Nếu nghệ sĩ không tỉnh táo, nhà quản
lý lại nhìn nhận đơn giản, một chiều sẽ dễ đẩy vấn đề càng đi về phía tiêu cực,
có hại...
Quy
luật tồn tại và phát triển của VHNT là quy luật của cái riêng, cái đơn nhất với
cơ sở gốc là cá tính sáng tạo mà sự hình thành của nó, ngoài năng khiếu chủ
quan còn là sự may mắn hội tụ tinh hoa của thời đại, vùng văn hóa, cuộc sống,
nghề nghiệp... Khi kết tinh thành tài năng, cá tính sáng tạo lại trở về hòa
nhập với đời sống. Các tác phẩm của họ như những hạt lúa vào mẩy luôn có xu
hướng níu mình về gốc. Những Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du... đều
như thế. Không phải ngẫu nhiên, khi già dặn, họ lại thường viết về cái bình
thường, nhỏ bé, như: Cây chuối, cây rau, hớp cháo...!
Cá
tính sáng tạo không được điều chỉnh, như con ngựa hoang hiếu chiến, hiếu
thắng-nếu gọi đích đáng thì đó là chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, tự phụ, tự cao, nổi
loạn, phá phách... Cũng là cây xanh nhưng chưa sâu rễ, nhất là chưa quang hợp
nhiều ánh sáng lý tưởng, chưa trải qua bão tố, có thể kết trái nhưng chưa
chuyển hóa đủ dinh dưỡng văn hóa... Muốn loại cây này có ích cho đời, chỉ có
cách là trồng nó vào vùng đất mới hoặc có chế độ chăm sóc đặc biệt!
Một
biểu hiện rõ nhất của chủ nghĩa cá nhân trong lĩnh vực văn nghệ ở mọi thời là thoát
ly cuộc sống, xa lạ với tư tưởng, tâm hồn, cách nghĩ, cách cảm của người lao
động. Cá biệt lại có những suy nghĩ viết để nổi danh, có tên tuổi, muốn thế
phải “gây hấn”, phải viết ngược, phải tạo scandal để gây chú ý. Chả khác gì cô
gái không đẹp phải tự “lộ hàng” quảng cáo, “đóng đinh” vào mắt người yếu bóng
vía...!!! Cũng vì “ăn xổi” mà “tác phẩm” không chịu kế thừa tinh hoa truyền
thống, không chịu tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại nên thiếu chiều sâu, hàm
lượng văn hóa thấp, nhạt nhẽo. Nhưng vì sao vẫn có người đọc?
Vì
gợi vào tâm lý thích cái lạ, cái bản năng của số ít độc giả, hoặc thủ thuật câu
khách, quảng bá giật gân... Cũng dễ hiểu, có nghệ sĩ tài năng trong quá khứ
nhưng do bị chi phối của cái tôi cá nhân mà ngày một xa rời lợi ích nhân dân,
khư khư tự ôm lấy cái quan niệm cực đoan, ích kỷ, độc đoán, không chịu mở lòng
hòa vào thế giới anh em đồng chí, cùng lo, cùng vui với số phận đất nước, cứ
tách ra, đi riêng, thậm chí đi ngược.
Nghệ
sĩ luôn sống trong cái tôi cô đơn. Cô đơn để suy ngẫm, để tưởng tượng không chỉ
về cái tốt, tích cực mà cả cái xấu, cái thấp hèn, tiêu cực. Vì sứ mệnh của nghệ
thuật chân chính vẫn phải sáng tạo về cái xấu để người đọc hiểu mà tránh xa nó,
tiêu diệt nó. Có khi vì sống quá sâu với nhân vật mà có nghệ sĩ phát ngôn không
phải cho cá nhân mình mà nói thay cho nhân vật (xấu), nên dễ gây ngộ nhận.
Trường hợp này rất cần sự thông cảm, thể tất với đặc thù sáng tạo. Nhưng khi
cái tôi bị đẩy đến cực đoan, vượt ngưỡng, thì một hạn chế của số người này là
quá đề cao cá nhân, chỉ mình là nhất, rồi coi thường, coi rẻ sản phẩm nghệ
thuật cũng như nhân cách đồng nghiệp.
Thế
là dẫn tới quan hệ “cánh hẩu”, khen vống những ai hợp mình, vùi xuống bùn kẻ
khác mình, có khi “không được ăn thì đạp đổ”. Nguy hiểm hơn khi có người như
vậy lại là thành viên trong hội đồng tuyển chọn, xét duyệt sẽ dẫn tới sự thiếu
công bằng, gây ra dư luận không tốt... Với họ sự khen chê chẳng qua cũng vì
thỏa mãn cá nhân mình, để làm nổi cá nhân mình. Nguyên nhân của trường hợp này,
ngoài sự quá lớn của cái tôi thì còn là do ít hiểu biết về sự mênh mông vô tận
của tri thức nhân loại. “Ếch ngồi đáy giếng” là thế, chỉ nhìn thấy bầu trời
bằng cái miệng giếng mà thôi!
Cần
có những giải pháp khắc phục nào?
Tình
trạng nhàn nhạt, quanh quẩn với những đề tài tình yêu, tình dục, tiêu cực xã
hội, tha hóa tính người... không sâu sắc, thiếu tính tư tưởng... dẫn tới tình
trạng bạn đọc xa dần VHNT. Tự thân nội dung vấn đề trình bày bên trên cũng đã
cho thấy hướng khắc phục, để rõ hơn, xin lưu ý:
Một
là, rất cần tôn trọng sự tự do sáng tạo, nhưng phải đặc biệt quan tâm việc bồi
dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường cho văn nghệ sĩ. Văn học là vấn
đề tư tưởng. Lịch sử nghệ thuật cho thấy, các nghệ sĩ lớn luôn tự do sáng tạo
theo một xu hướng, trường phái nhất định. Sáng tạo theo học thuyết Mác-Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh là sáng tạo theo tinh thần nhân văn, tiến bộ, hoàn toàn
hợp với quy luật tư tưởng và tình cảm của nghệ thuật.
Tư
tưởng sẽ chuyển hóa để rồi trở thành máu thịt của tác phẩm. Để có tư tưởng phải
là quá trình lâu dài, từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc cuộc sống đến thấu cảm
(đồng điệu, hòa nhập) vào hình tượng, cộng cảm (tiếp nhận, chia sẻ, lan tỏa)
với cõi nhân sinh để có một mẫu số văn hóa chung mới có thể truyền cảm một cách
sâu xa (nghệ thuật) tới đối tượng tiếp nhận.
Hai
là, nên tổ chức các chuyến đi sâu, dài ngày vào thực tế, người nghệ sĩ sẽ được
hiểu kỹ hơn một mảng đời sống, sẽ có những vui buồn thật sự, cảm thông và chia
sẻ với người lao động. Nghệ sĩ chỉ có thể kiến trúc mô hình và xây dựng tác
phẩm từ mô hình và chất liệu ngoài cuộc sống. Vai trò lãnh đạo của hội chuyên
ngành rất quan trọng, ngoài uy tín tài năng thì còn là tài tổ chức. Không chỉ
là tổ chức trao đổi, gặp gỡ, thăm hỏi, cơ bản hơn là tổ chức ra các khuynh
hướng, các trường phái sáng tạo phù hợp với sự phát triển, từ đó tạo ra các
tranh luận học thuật để nảy ra các tư tưởng nghệ thuật mới.
Các
nền văn học lớn đều có các trường phái vừa thống nhất, kế thừa, giao thoa, vừa
tranh biện, bổ sung, loại trừ để cùng phát triển. Văn hay dở là do người viết.
Hiện nay, các triết học trên thế giới đang rất đề cao chủ thể, vấn đề “mỹ học
chủ thể” được nói đến nhiều. Nghĩa là coi tác giả mang tính quyết định chất
lượng tác phẩm. Nghệ thuật là cái riêng, đơn nhất nên luôn cần đến tài năng. Vốn
sống, vốn tri thức văn hóa của nhà văn luôn được coi là vấn đề gốc để "cây
nhà văn" cường tráng, khỏe mạnh mà kết thành "quả tác phẩm" giàu
chất bổ dưỡng.
Ba
là, luật hóa xuất bản, thể chế hóa dưới luật một cách cụ thể về trách nhiệm để
tránh xuất bản, phát sóng những văn hóa phẩm kém chất lượng.
Bốn
là, tăng cường hơn nữa sự định hướng của các cơ quan quản lý và tiếng nói
chuyên môn, chuyên gia cao cấp. Những nơi đó đóng vai trò vừa là cánh tay nối
dài của Đảng, vừa là ngôi nhà chung, là điểm tựa của văn nghệ sĩ về tư tưởng,
tình cảm, nghiệp vụ, đồng thời là sự khẳng định có trọng lượng học thuật cao
nhất về các hiện tượng. Như một lẽ tự nhiên, văn chương phải có người đọc nên
nhiều nước phát triển có chiến lược bồi dưỡng các thế hệ độc giả, gọi chung là
“mỹ học tiếp nhận”. Có tác phẩm hay nhưng bạn đọc thờ ơ vì không hiểu, không
hợp thị hiếu thì thật phí. Nhiều nhà văn nổi tiếng thế giới đều có đối tượng
độc giả riêng là vì thế. Có nhà văn ở ta chưa chú ý tới bạn đọc dẫn tới sách
chủ yếu vẫn nằm trên giá thư viện.
Năm
là, bên cạnh việc tiếp thu lý luận văn nghệ nước ngoài, cơ bản hơn cần có chiến
lược nghiên cứu tiếp thu, kế thừa, phát triển lý luận văn nghệ của cha ông. Xin
nhắc lại lời Bác Hồ, sáng suốt, sâu sắc, tinh tế vô cùng: “Muốn thấy hết cái
hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta, thì phải đừng bị trói buộc bởi những
tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây... phải dựa trên tiêu chuẩn của ta.
Tiêu chuẩn ấy là gì? Đó là nền mỹ học ẩn chứa trong thực tiễn truyền thống nghệ
thuật dân gian, dân tộc” (1).
Chúng
ta đang cố gắng làm giàu thêm lý luận VHNT bằng cách tiếp thu cái hợp lý của lý
luận nước ngoài. Đấy là một hướng đi đúng. Nhưng thiết nghĩ, song hành với
hướng đó và cơ bản hơn là phải đi sâu vào vốn cổ của ta để tìm tinh hoa lý luận
truyền thống cha ông mà kế thừa, phát triển, nâng cao cho phù hợp với hôm nay.
Bởi lý thuyết nước ngoài bao giờ cũng có độ vênh lệch, chưa nói đến có sự áp
đặt, khiên cưỡng.
Mỹ
học của cả một nền văn học dân gian rồi văn học trung đại là cả một kho vàng tư
tưởng còn chìm trong các sáng tác văn chương. Chỉ có điều phải bỏ công tìm tòi,
suy ngẫm bởi chúng ẩn sâu trong các hình tượng thẩm mỹ chứ không hiển hiện
triết lý khô cứng ra bên ngoài. Chỉ xin đề cập tới một Nguyễn Trãi mà chúng tôi
tìm hiểu đã thấy ở nhà tư tưởng lớn này cũng có hẳn một hệ mỹ học riêng với: Tư
tưởng mỹ học về con người văn hóa, về thiên nhiên, về phạm trù cái đẹp; một
quan niệm sứ mệnh nghệ thuật vì con người; quan niệm hiện đại về quy luật vận
động đặc thù của nghệ thuật; một mỹ học chủ thể; một mỹ học tiếp nhận.
Không
chỉ ở Nguyễn Trãi mà còn cả một kho tàng mỹ học mà cha ông đã học tập, tiếp
thu, kế thừa, kết tinh, phát triển và nâng cao một cách tuyệt vời mỹ học truyền
thống, thể hiện tinh tế trong trước tác. Đó là cả một mỏ vàng mà hậu thế chúng
ta phải tìm tòi, khai thác, tinh luyện. Truyền thống lý luận của ta, ngoài
những hiển ngôn trên văn bản còn thường thể hiện dưới dạng tác phẩm mà ngay ở
thời hiện đại cũng có, ví như câu thơ hay của Phạm Tiến Duật: “Cây cúc đắng
quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay” phải chăng còn có ý
về chủ thể sáng tạo: Nghệ sĩ phải quên mình, làm mới mình để sáng tạo. Tác phẩm
nghệ thuật phải có chức năng làm đẹp và nuôi dưỡng sự sống!
QĐND
Đăng nhận xét