Ngày 14/3/1988 Trung Quốc đưa quân đánh chiếm một số bãi đá ngầm (còn gọi là “bãi cạn”, “đảo chìm” hay “đá”) của Việt Nam. Sự kiện này được các báo chí gọi là “trận chiến Gạc Ma”, “hải chiến Trường Sa”, hay các tài liệu thường nói là “cuộc xung đột vũ trang trên biển khu vực quần đảo Trường Sa”, nói như vậy cũng chưa hoàn toàn chính xác. Tôi cho rằng thực chất đây là trận chiến đơn phương do Hải quân Trung Quốc dùng tầu chiến đánh chiếm trái phép các đảo chìm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Họ đã bắn cháy 1 tầu đổ bộ, bắn chìm 2 tầu vận tải của Hải quân Việt Nam, giết chết 64 cán bộ chiến sỹ Hải quân, chiếm đóng trái phép 6 bãi đá ngầm của Việt Nam.
Tháng
4/1986 Tư lệnh Giáp Văn Cương dẫn đầu đoàn cán bộ Hải quân, có sự tham gia của
cơ quan Bộ Quốc phòng đi kiểm tra, chỉ đạo các mặt toàn bộ quần đảo Trường Sa,
tôi là trợ lý phòng Công binh cùng anh Đỗ Thông tham gia đoàn. Đoàn đi gồm 2
tầu HQ505 và HQ511.
Đến
đảo chìm Thuyền Chài TL cho neo lại, thả xuồng vào kiểm tra mốc chủ quyền của
ta, chúng tôi phát hiện có hiện tượng vi phạm, nhòm ngó của nước ngoài. Tư lệnh
Giáp Văn Cương nói: Sẽ có tranh chấp đảo chìm xảy ra và chỉ đạo các biện pháp
chuẩn bị đối phó.
Ông
giao cho tôi Đại uý kỹ sư Hoàng Kiền nghiên cứu dùng cát san hô trộn xi măng để
xây dựng công trình ở Trường Sa theo phương pháp trình tường. Đại uý kỹ sư Đỗ
Văn Thông nghiên cứu thiết kế nhà chốt giữ nhanh đảo chìm. Vào bờ chúng tôi
triển khai ngay.
Tháng
11 năm 1986 nhà C3 đầu tiên được lắp dựng trên đảo chìm Thuyền Chài. Nhà tận
dụng cột điện gỗ thông ở Cam ranh của Mỹ cắt ra, kết cấu dầm gỗ thông, lát ghi
nhôm lợp vòm tôn. Đại uý kỹ sư Đỗ Văn Thông Trợ lý Phòng Công binh cùng Thượng
uý kỹ sư Hoàng Anh Dũng - Trợ lý công binh Vùng 4 thiết kế, phân đội công binh
Vùng 4 ra triển khai. Sau lkhi Tư lệnh trực tiếp ra kiểm tra thấy chưa yên tâm,
Ông quyết định xây dựng một nhà lâu bền còn gọi là nhà C1 bên cạnh nhà C3 bằng
đá xây kết hợp bê tông cốt thép lắp ghép do kỹ sư Đỗ Văn Thông thiết kế, Công
binh vùng 4 thi công.
Ngày
14/02/1986 Trung Quốc đưa tầu chiến giả dạng tầu cá đến trinh sát một số bãi
cạn ở Trường Sa và đặt các tấm bê tông "kỷ niệm" ở một số bãi cạn.
Ngày 31/12/1986 Malaixia đưa quân chiếm đóng hai đảo chìm Kỳ Vân và Kiều Ngựa.
Ngày 3/9/1987 Quốc hội Trung Quốc thông qua quy chế đưa đảo Hải Nam thành tỉnh
và sát nhập quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam vào Hải Nam, sau đó họ
liên tục cho tầu chiến giả dạng tầu dân sự để khảo sát, trinh sát thăm dò quần
đảo Trường Sa của ta nhằm âm mưu xâm chiếm các đảo chìm.
Trước
tình hình đó Bộ Tư lệnh Hải quân nghiên cứu phương án đóng giữ các đảo chìm. Đã
đóng 2 pông tông có nhà phủ bạt trên boong đưa ra Đá Đông và Đá Tây, nhưng do
sóng gió lớn pông tông Đá Tây bị đứt neo trôi không chịu được đành kéo về Đá Đông.
Chuyển sang phương án chủ yếu là đưa các tầu vận tải ra canh giữ, làm các nhà
cao chân C3 để chốt giữ các đảo chìm. Đại tá Mai Xuân Vĩnh - Phó Tư lệnh - Tham
mưu trưởng Hải Quân trực tiếp trên tầu ra Trường Sa chỉ huy thực hiện nhiệm vụ
trong thời điểm cấp bách này.
Khi
phát hiện Trung Quốc đưa tầu chiến xuống Trường Sa, chúng ta đã đưa các tầu vận
tải và các lực lượng Công binh, Hải quân đánh bộ, lực lượng chốt giữ đảo ra
đóng giữ. Với lực lượng tầu vận tải của Lữ đoàn 125 và Lữ đoàn 955, Trung đoàn
Công binh 83, Lữ đoàn giữ đảo 146, Lữ đoàn Hải quân đánh bộ 126, Tiểu đoàn Công
binh Vùng 4 chúng ta quyết tâm tổ chức đóng giữ các đảo chìm.
***
Ngày
14/3/1988 Trung Quốc cho các tầu chiến lớn với âm mưu chiếm các đảo chìm Cô
Lin, Len Đao, Gạc Ma, chúng ta đã đấu tranh kiên quyết.
Tại
Gạc Ma, một phân đội của trung đoàn Công binh 83 và bộ phận của Lữ đoàn 146 đã
đổ bộ lên đảo cắm cờ Việt Nam và đang vận chuyển vật liệu lên dựng nhà C3.
Trung Quốc đã cho lính lên tranh chấp với ta, chúng giật cờ không được, tên chỉ
huy đã dùng súng ngắn bắn chết Trung uý Trần Văn Phương - sỹ quan chỉ huy của
Lữ đoàn 146. Đồng chí Nguyễn Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công binh 83
quyết tâm giữ lá cờ Tổ quốc, chúng không giật được đã dùng lưỡi lê đâm vào vai
đồng chí Lanh cho gục xuống. Quân ta đã nắm tay nhau đứng vòng quanh quyết bảo
vệ lá cờ thiêng liêng của tổ quốc, dùng xà beng dụng cụ lao động chống trả lại
những hành động hung hãn của quân thù. Không thể phá vỡ được vòng tròn bất tử
của các chiến sỹ Hải Quân nhân dân Việt Nam, quân Trung Quốc đã rút quân lên
tầu rồi hạ pháo 100 ly, 37 li 2 nòng xả đạn dã man bắn chết gần hết số cán bộ
chiến sỹ của Trung đoàn 83 lắp dựng nhà và cán bộ chiến sỹ của Lữ đoàn 146 ra
giữ đảo.
Trong
trận này, Trung Quốc với lực lượng tầu chiến mạnh, số lượng nhiều (9-12 chiếc)
đã hung hãn bắn chìm tàu vận tải HQ604 ở Gạc Ma, bắn chìm tầu vận tải HQ605 ở
Len Đao, bắn cháy tàu đổ bộ HQ505 ở Cô Lin. Tầu HQ505 bị cháy vẫn quyết tâm lao
lên đảo và ta giữ được Cô Lin. Chúng ta tiếp tục đưa tầu vận tải, tầu kéo treo
cờ chữ thập đỏ và lực lượng ra Len Đao để cứu thương binh lấy tử sỹ và dựng nhà
C3 đóng giữ Len Đao. Tổng số 64 cán bộ chiến sỹ Hải Quân đã anh dũng hy sinh ở
cả 3 đảo trong đó có 26 đồng chí của Trung đoàn Công binh 83, họ bắt đi 9 người
trong đó có 6 chiến sĩ của của Trung đoàn Công binh 83 mang về đảo Hải Nam giam
giữ, tháng 8 năm 1991 họ trao trả, tôi ra nhận 6 chiến sĩ của Trung đoàn Công
binh 83 về Đà Nẵng.
***
Bằng
các hành động dũng cảm không chùn bước trước mũi súng của quân thù. Với quyết
tâm cho tầu ủi bãi, dùng Pông tông neo cắm, lắp dựng nhà C3 chúng ta đã chốt
giữ được 12 đảo chìm trong khi Trung Quốc chiếm được 6 đảo chìm. Trong đó xảy
ra chiến sự ở khu vực 3 đảo chìm, Trung Quốc chiếm được 1 đảo chìm Gạc Ma,
chúng ta vẫn giữ được Cô lin và Len Đao.
Trung
tá Vũ Huy Lễ thuyền trưởng tầu HQ505, Trung tá Trần Đức Thông Phó lữ đoàn
trưởng Lữ đoàn 146 liệt sĩ, Đại uý Vũ Phi Trừ thuyền trưởng tầu HQ604 liệt sĩ,
Trung uý Trần Văn Phương đại đội trưởng/Lữ đoàn 146 liệt sĩ, Binh nhì Nguyễn
Văn Lanh chiến sỹ của Trung đoàn Công Bịnh 83 đã được tuyên dương danh hiệu Anh
hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
***
Trung
Quốc chọn đúng thời điểm gió mùa đông bắc rất mạnh, sóng gió lớn để thực hiện
âm mưu đánh chiếm các đảo chìm của ta ở Trường Sa. Trong khi các tầu của ta nhỏ
chịu sóng gió kém, chưa có định vị vệ tinh. Lực lượng tầu của Hải quân ta lúc
đó còn yếu, chúng ta có tầu Phóng lôi và tầu Tên lửa, tầu Pháo nhưng đều là
loại nhỏ tiến công ven bờ, chịu sóng gió kém. Về không quân các máy bay MIC
không bay tới Trường Sa. Trong khi đối phương có các tầu chiến lớn với số lượng
đông và hoả lực rất mạnh, cuộc chiến không cân sức. Đồng thời lúc đó chúng ta
còn đang phải đối phó với cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc và tây Nam,
tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn, về đối ngoại cũng không thuận lợi
khi chúng ta đưa quân vào giúp nhân dân Campuchia đánh đổ chế độ diệt chủng
PolPot, nhưng bị cho là xâm lược Campuchia.
Có
người phát biểu, nói năng không thực tế, cho rằng đồng chí Lê Đức Anh Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng và đồng chí Giáp Văn Cương - Tư lệnh Hải quân do dự không dám
đánh. Nói như vậy là không có kiến thức về quân sự, võ mồm. Phải hiểu rằng tác
chiến trên biển hoàn toàn khác với tác chiến trên đất liền. Tương quan lực
lượng Hải quân của hai bên khi đó và trực tiếp ở Trường Sa thì ta ở thế yếu.
Tình hình kinh tế đất nước vô cùng khó khăn, tình hình quốc tế không thuận lợi
cho ta. Tư lệnh Giáp Văn Cương xử lý tình hình lúc đó là hết sức sáng suốt, giữ
được trạng thái ổn định sau 14/3/1988 không để họ tiếp tục lấn tới. Tất cả cán
bộ Hải quân lúc đó cho đến hiện nay đều khẳng định như vậy./.
(Bài viết của Thiếu
tướng Hoàng Kiền - Nguyên Tư lệnh Binh chủng công binh - người có tám năm là
chỉ huy Trung đoàn Công binh Hải quân 83 (nay là lữ đoàn) tham gia xây dựng và
bảo vệ Trường Sa thập niên 1980-1990)
Đăng nhận xét