Những ngày qua, đất nước phấn khởi chào đón mùa xuân mới, cũng là dịp kỷ niệm 92 ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò, vị trí lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử. Thực tiễn quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc khẳng định, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Tuy
nhiên, vào mỗi dịp kỷ niệm ngày thành lập Đảng, các thế lực thù địch, cơ hội
chính trị, phản động lại gia tăng các hoạt động tuyên truyền chống phá, đưa ra
những luận điệu xuyên tạc hòng làm lung lạc về nhận thức, niềm tin đối vai trò,
vị trí cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Từ đó,
chúng tích cực vận động, tập trung lực lượng, đẩy mạnh hoạt động chống phá hòng
làm thay đổi chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây là âm mưu,
luận điệu nguy hiểm, cần được nhận diện, đấu tranh, phản bác trong công tác tư
tưởng hiện nay. Những luận điệu này tập trung ở những điểm sau đây:
Một
là, các đối tượng xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng, phủ nhận cơ sở lý luận
về vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Những
chiêu bài mà chúng sử dụng không mới nhưng ngày càng tinh vi và thâm độc hơn.
Các đối tượng lập luận, tuyên truyền, cổ vũ cho việc từ bỏ chủ nghĩa Mác-Lênin,
cho rằng đây là sự sai lầm về ý thức hệ; rêu rao học thuyết Mác – Lênin là một
“lý thuyết suông” về CNXH không tưởng, không bao giờ thực hiện được.
Cho
rằng sự sụp đổ của CNXH ở Đông Âu, Liên Xô và trên toàn thế giới là một tất
yếu, là sự cáo chung đã được báo trước; xuyên tạc lý luận về CNXH đã lỗi thời,
không còn phù hợp với thế kỷ XXI, đặc biệt không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam
hiện nay và cần loại bỏ. Tầm thường hóa, phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh; cố tình
xuyên tạc Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác – Lênin với học thuyết đấu tranh
giai cấp là nguyên nhân gây ra cảnh “huynh đệ tương tàn, nồi da nấu thịt” trước
đây, làm đất nước nghèo nàn, lạc hậu…
Vị
trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự lựa chọn của
lịch sử dân tộc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, trong điều kiện
khủng hoảng về đường lối cứu nước, đã xuất hiện nhiều khuynh hướng đấu tranh,
nhiều lực lượng cách mạng, tuy nhiên đều không thể giành lại độc lập cho dân
tộc, tự do cho nhân dân. Chỉ khi Nguyễn Ái Quốc tìm ra chân lý con đường cách
mạng vô sản của chủ nghĩa Mác – Lênin, sự ra đời, lãnh đạo, đoàn kết, tập hợp
lực lượng của Đảng đã dẫn dắt dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác, đem lại vị thế, cơ đồ đất nước như ngày hôm nay. Thực tiễn khách quan là
minh chứng khẳng định rõ, không thể nói chủ nghĩa Mác – Lênin là sai lầm ý thức
hệ, sai lầm lịch sử như các luận điệu chống phá.
Hai
là, các đối tượng cố gắng lập luận, quy kết thể chế chính trị ở Việt Nam tạo
lập vị trí của Đảng đứng trên Hiến pháp, cho rằng Đảng đã và đang tham nhũng
quyền lãnh đạo, cai trị đất nước, chuyên quyền, độc đoán.
Chúng
ta đều biết, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua
bao giông tố, thác ghềnh, đưa dân tộc Việt Nam tới những thắng lợi hiển hách,
thống nhất non sông đất nước, mang lại độc lập cho dân tộc. Hiến pháp nước Cộng
hoà XHCN Việt Nam quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân
dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước
nhân dân về những quyết định của mình. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”. Với cơ sở
như vậy thì luận điệu rêu rao “trong thể chế chính trị ở Việt Nam, Đảng đứng
trên Hiến pháp, tham nhũng quyền lãnh đạo, và bám giữ quyền cai trị đất nước;
một thể chế độc đảng là chuyên quyền, độc đoán” là hoàn toàn sai trái. Rõ ràng,
luận điệu này nhằm mục đích phá hoại, lật đổ vai trò lãnh đạo của Đảng.
Ba
là, dưới chiêu bài góp ý về đổi mới thể chế chính trị Việt Nam, các đối tượng
đưa ra những luận điệu chống phá núp dưới dạng kiến nghị, đòi hỏi phải “đổi mới
chính trị” bằng cách phải thực hiện thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối
lập.
Trước
hết, cần thấy rằng, đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập nằm trong âm mưu
thực hiện “diễn biến hòa bình” mà mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng, thay đổi thể chế chính trị, hướng lái cách mạng Việt Nam theo con
đường tư bản chủ nghĩa. Từ đó, chúng đòi hỏi phải thực hiện xóa bỏ ngay Điều 4
của Hiến pháp. Thực chất luận điệu này là tạo điều kiện, tiền đề cho việc ra
đời và công khai hóa, hợp pháp hóa các tổ chức chính trị đối lập, từ đó cạnh
tranh vai trò lãnh đạo, tiến tới thủ tiêu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Chúng rêu rao nước ta vẫn còn tình trạng khủng hoảng, đói nghèo là hậu quả
của chính sách cai trị độc tài dựa trên nền tảng tư tưởng chính trị là chủ
nghĩa Mác-Lênin mà Đảng Cộng sản áp đặt trên đất nước Việt Nam. Chúng tập trung
xuyên tạc vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, đặc biệt là nguyên tắc
tập trung dân chủ, vu cáo rằng đó là chiếm quyền để cai trị nhân dân, vi phạm
dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”… Luận điệu này xuyên tạc bản chất
chính trị, hạ thấp vai trò, uy tín của Đảng, đẩy quần chúng, nhân dân xa rời,
đối lập với Đảng, thúc đẩy thể chế đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập.
Lịch
sử diễn ra tại Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đã chỉ ra bài học xương máu,
chứng minh rõ âm mưu, ý đồ thâm độc này. Sau khi Điều 6 Hiến pháp Liên Xô bị
xóa bỏ, ngay lập tức, các đảng phái xuất hiện “như nấm sau mưa”, ngoài Đảng
Cộng sản Liên Xô còn có tới 153 tổ chức đảng phái khác ra đời và cạnh tranh vai
trò lãnh đạo với Đảng Cộng sản. Đến đầu năm 1991, sự tồn tại của Đảng Cộng sản
Liên Xô chỉ còn trên danh nghĩa và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết vào cuối năm
1991 là tất yếu, khi Đảng Cộng sản đã mất quyền lãnh đạo. Không đi theo “vết xe
đổ của Liên Xô”, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, không chấp
nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, không để hình thành tổ chức chính
trị đối lập, đối trọng với Đảng và Nhà nước là yêu cầu có tính nguyên tắc.
Bốn
là, các đối tượng lợi dụng những vấn đề mang tính tiêu cực nảy sinh trong đời
sống xã hội như thiếu sót, bất cập trong cơ chế, chính sách, tình trạng tham
nhũng… để hướng lái, xuyên tạc bản chất của chế độ, quy tiêu cực do hệ quả sự
lãnh đạo của Đảng.
Trong
quá trình đổi mới, các lĩnh vực của đời sống xã hội vừa được xây dựng, tổng
kết, rút kinh nghiệm và từng bước hoàn thiện về mặt lý luận và thực tiễn. Những
vấn đề như kinh tế thị trường định hướng XHCN còn những hạn chế, hoàn thiện còn
chậm; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hoàn chỉnh và đồng bộ; nhiều
cơ chế, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới. Cơ cấu lại
nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa chưa đạt mục tiêu. Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước hiệu quả hoạt
động chưa cao; công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí mặc dù đạt được những
kết quả tích cực song còn nhiều tồn tại, hạn chế; hiệu lực, hiệu quả quản lý
nhà nước còn những bất cập… Dựa vào những hạn chế, tồn tại nói trên, các thế
lực thù địch lợi dụng để suy diễn, xuyên tạc, thổi phồng dưới nhiều hình thức
khác nhau. Chúng lập luận, quy chụp bằng những luận điệu chính trị hóa, cho
rằng đó là bản chất của chế độ XHCN và là hậu quả của Đảng. Những luận điệu này
làm cho những người không có tư tưởng chính trị vững vàng dễ bị lầm tưởng, hồ
nghi, thậm chí xét lại, dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về
tư tưởng chính trị.
Tổng
kết 35 năm đổi mới, Đại hội XIII của Đảng đánh giá:“Đất nước ta đã đạt được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng CNXH và bảo
vệ Tổ quốc XHCN”. Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối
đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân tin tưởng, kiên định, đấu tranh, hy sinh, thực hiện con đường độc lập
dân tộc gắn liền với CNXH, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn mình” mà Đảng lựa chọn./.
Đăng nhận xét