Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là một trong những nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Đảng; được xem là nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc khác. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là cần thực hiện tốt nguyên tắc này và đó là điều kiện để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
1. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Quán
triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê-nin về xây
dựng Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, người
sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, luôn coi trọng nguyên tắc tập trung
dân chủ và coi đó là nguyên tắc số một về tổ chức và hoạt động của một Đảng
Cộng sản. Điều lệ của Đông Dương Cộng sản Đảng và An Nam Cộng sản Đảng, những
tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam, đều khẳng định và chỉ rõ những
nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ trong hoạt động của Đảng. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng 92 năm qua, Đảng ta luôn xác định tập trung dân chủ là
nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng. Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI thông qua ngày 19 tháng 1 năm
2011) nhấn mạnh: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động,
lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”(1).
Theo
Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong điều kiện Đảng cầm quyền ở nước ta, biểu hiện cụ
thể của nguyên tắc tập trung dân chủ chính là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách. Việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
trong Đảng thống nhất với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong bộ máy
nhà nước và trở thành một phong cách làm việc cần thiết của cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Hiện nay, việc thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ và phong
cách làm việc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao sức chiến đấu và năng
lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Thực chất, việc cụ thể hóa nguyên tắc này là
xử lý hài hòa mối quan hệ giữa cấp ủy, tập thể lãnh đạo và mỗi thành viên, mà
quan trọng nhất là đối với vị trí, vai trò của người đứng đầu cấp ủy, chính
quyền cơ quan, đơn vị đó.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Vì sao cần phải có tập thể lãnh đạo? Vì một
người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông
thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề, không thể trông thấy
và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề. Vì vậy, cần phải có nhiều người.
Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người thì thấy rõ mặt này, người thì trông
thấy rõ mặt khác của vấn đề đó… Vì sao cần phải cá nhân phụ trách? Việc gì đã
được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi, thì cần phải
giao cho 1 người hoặc một nhóm ít người phụ trách theo kế hoạch đó mà thi hành.
Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”(2). Trong hoạt động lãnh đạo,
một mặt, nếu tập thể lãnh đạo cùng tham gia, đóng góp ý kiến, thảo luận, bàn
bạc thấu đáo, kỹ lưỡng, thì quyết định lãnh đạo, chủ trương, chính sách mới sẽ
bảo đảm được tính khách quan, chính xác hơn, khắc phục được tình trạng chủ
quan, duy ý chí; mặt khác, khi tập thể đã thảo luận một cách dân chủ, kỹ lưỡng
và có quyết định chính xác, đúng đắn về chủ trương, thì không thể hô hào chung
chung, mà tất cả mọi người phải cùng thực hiện, phải phân công, giao nhiệm vụ
cho từng thành viên phụ trách trong từng lĩnh vực, từng công việc cụ thể. Chỉ
có như vậy, hoạt động của cơ quan, đơn vị sẽ vừa phát huy được dân chủ, tập hợp
trí tuệ của các thành viên và nâng cao vai trò lãnh đạo của tập thể, vừa đề cao
vai trò, trách nhiệm của cá nhân, phát huy được năng lực, sở trường và tính chủ
động, sáng tạo của mỗi thành viên khi được phân công phụ trách, nhất là trách
nhiệm của người đứng đầu.
“Tập
thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách” có mối quan hệ gắn bó mật thiết, biện
chứng với nhau, là hai mặt thống nhất trong một chỉnh thể không thể tách rời.
Khi một tập thể lãnh đạo gương mẫu, thực sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành
động, tất cả vì lợi chung của Đảng, luôn đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên
trên hết, trước hết, chấp hành nghiêm chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước, sẽ tạo được môi trường thuận lợi cho mỗi thành
viên lãnh đạo rèn luyện, phấn đấu, phát huy hết phẩm chất, năng lực, sở trường
để đóng góp cho sự nghiệp chung. Bên cạnh đó, khi mỗi thành viên cấp ủy, lãnh
đạo cơ quan, đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách
mạng trong sáng, thực sự tiền phong gương mẫu, luôn năng động, sáng tạo, dám
đổi mới, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách,
quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung, sẽ làm tăng thêm vai trò, sức mạnh
và năng lực lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị. Trong mối
quan hệ giữa “tập thể lãnh đạo” và “cá nhân phụ trách”, thì mối quan hệ giữa
cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị và người đứng đầu có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với hiệu quả lãnh đạo của cấp ủy, tập thể lãnh đạo và vai trò, trách
nhiệm của người đứng đầu trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị. Khi tập thể lãnh đạo thực sự đoàn kết, thống nhất, gương mẫu, giữ vững
nguyên tắc tổ chức và các quy định của Đảng, tất cả vì lợi ích của nhân dân,
các thành viên ban lãnh đạo đều đề cao tinh thần trách nhiệm, thẳng thắn đấu
tranh với quan điểm và hành vi sai trái…, sẽ làm tăng thêm vai trò, trách nhiệm
của người đứng đầu, trở thành chỗ dựa vững chắc để người đứng đầu quyết đoán,
quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành công việc theo chức trách, nhiệm vụ được
giao; đồng thời, sẽ ngăn ngừa, hạn chế được những biểu hiện chủ quan, duy ý chí
và hành vi vi phạm nguyên tắc của người đứng đầu. Điều đó là bởi, người đứng
đầu cấp ủy, chính quyền chỉ là một thành viên trong cấp ủy, tập thể lãnh đạo,
nhưng có vị trí rất quan trọng, đóng vai trò “thủ lĩnh”, định hướng, dẫn dắt cả
tập thể trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Thực
tiễn cũng chỉ ra rằng, nếu người đứng đầu có phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ, gương mẫu về mọi mặt, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của
Đảng, đề cao pháp luật của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ, sẽ góp phần xây
dựng tập thể lãnh đạo đoàn kết, thống nhất, trong sạch, vững mạnh, nâng cao
năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, đưa địa phương, cơ quan, đơn vị vượt qua
mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao. Ngược lại,
nơi nào và lúc nào người đứng đầu thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không gương mẫu,
chấp hành không nghiêm chủ trương, đường lối, các nguyên tắc, quy định của
Đảng, có tư tưởng vụ lợi, cá nhân chủ nghĩa…, thì sẽ dẫn đến thiếu đoàn kết,
thống nhất trong nội bộ lãnh đạo; nhiệm vụ chính trị không được hoàn thành,
trong cơ quan, đơn vị thường xảy ra tiêu cực, thậm chí tham nhũng, lãng phí, vi
phạm Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; không những gây thiệt
hại về kinh tế, mà còn làm tổn thất, mất mát về cán bộ, làm suy giảm niềm tin
của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước…
2. Thực
trạng việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách trong lãnh
đạo thực hiện các nhiệm vụ chính trị
Thực
tiễn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong những năm qua cho thấy, các
cấp ủy, tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở đã có nhiều cố gắng trong việc thể
chế hóa, cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; xác định chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của cấp ủy, tập
thể lãnh đạo cơ quan, đơn vị và của mỗi cá nhân, nhất là đối với người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền để thực hiện. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm và kết quả
bước đầu đạt được, việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách, nhất là việc xác định trách nhiệm của người đứng đầu cấp
ủy, chính quyền với tập thể cấp ủy, ban lãnh đạo cơ quan, đơn vị vẫn chưa thật
rõ ràng và còn những hạn chế, bất cập. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền có
vai trò rất quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của mỗi địa phương, cơ
quan, đơn vị; có vai trò “là thủ lĩnh”, là “đầu tàu” để dẫn dắt, truyền cảm
hứng và lôi cuốn đối với tập thể cấp ủy, lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhưng người đứng đầu cũng chỉ là một thành viên dự họp và khi biểu quyết cũng
chỉ có một phiếu như các thành viên khác.
Trong
thực tế, cũng có không ít cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, đơn vị hành chính
chưa thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Một
mặt, một số cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu thiếu gương mẫu, uy tín
thấp, phẩm chất, năng lực chưa ngang tầm nhiệm vụ, nói nhiều làm ít, nói không
đi đôi với làm, quan liêu, xa dân, độc đoán, chuyên quyền, cá nhân chủ nghĩa,
vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, nhưng không được tập
thể theo dõi, giám sát, giúp đỡ kịp thời, dẫn đến vi phạm nguyên tắc tổ chức và
các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm suy giảm niềm
tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Mặt khác, cũng do chưa cụ thể hóa và
phân định thật rõ thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu nên còn có sự lúng
túng giữa thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ
đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở nhiều nơi. Cũng có nơi đã xảy ra sai phạm do
nhầm lẫn giữa thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy (thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể quyết định theo đa số) với người đứng đầu
cơ quan, đơn vị (thực hiện nguyên tắc thủ trưởng quyết định và chịu trách nhiệm
về quyết định đó), nhất là đối với những đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là
thủ trưởng cơ quan, đơn vị. Vì thế, nhiều nơi có biểu hiện là, khi địa phương,
tổ chức, cơ quan, đơn vị có ưu điểm, thành tích thì ai cũng thấy có công lao,
thành tích của mình đóng góp ở trong đó; nhưng khi có sai lầm, khuyết điểm,
thậm chí để xảy ra sai phạm, thì không xác định được trách nhiệm của tập thể và
cá nhân đến đâu, nhất là của người đứng đầu; và cuối cùng là đổ cho nguyên nhân
khách quan và lỗi chung của tập thể, mà không có cá nhân nào chịu trách nhiệm.
Cũng
không ít nơi còn biểu hiện dân chủ xuôi chiều, dân chủ hình thức, ý kiến phát
biểu của các thành viên lãnh đạo chủ yếu dựa theo ý kiến của người đứng đầu,
theo kiểu “gió chiều nào che chiều ấy”. Đây thực chất là thông qua cơ chế dân
chủ của tập thể để hợp thức hóa ý chí áp đặt và sự chỉ đạo của người đứng đầu
cấp ủy, chính quyền cơ quan, đơn vị. Vì vậy, trong công tác đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ, đã xảy ra không ít trường hợp là, mặc dù thực hiện “đúng quy trình”
nhưng vẫn không lựa chọn được đúng người, đúng việc, trong khi đó có một số
trường hợp được bổ nhiệm “thần tốc” lại là con, em, người thân của cán bộ lãnh
đạo, nhất là người đứng đầu, nên đã gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và nhân
dân. Thực trạng trên có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó có
nguyên nhân chủ quan là việc cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách và việc phân định chưa thật rõ ràng trách nhiệm của
người đứng đầu trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị;
chưa phát huy đúng mức vai trò của cá nhân trong tập thể.
3. Nâng
cao hiệu quả việc cụ thể hóa nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
Để
khắc phục những hạn chế, khuyết điểm và bất cập nêu trên, trong những năm gần
đây, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung, sửa
đổi và ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế, quy trình, hướng
dẫn… nhằm cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; xác định rõ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền của tập thể và cá nhân; quy
định cụ thể những việc, những vấn đề phải đưa ra tập thể thảo luận, quyết định
và chịu trách nhiệm; những việc cá nhân, trong đó có người đứng đầu, được đề
xuất hoặc quyết định và chịu trách nhiệm về đề xuất, quyết định của mình, làm
cơ sở cho việc kiểm tra, giám sát và kiểm soát quyền lực của tập thể và cá nhân
từ Trung ương đến địa phương, cơ sở. Cụ thể là:
Thứ
nhất, sau mỗi kỳ Đại hội Đảng, tại hội nghị trung ương lần thứ hai, Ban Chấp
hành Trung ương đều bổ sung, sửa đổi và ban hành Quy chế làm việc của Trung
ương; trong đó, quy định cụ thể thẩm quyền, trách nhiệm của Ban Chấp hành Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và thẩm quyền, trách
nhiệm của Tổng Bí thư, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban
Chấp hành Trung ương… Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng bổ sung, sửa đổi và ban
hành quy định về chức năng, nhiệm vụ của Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng
Chính phủ, các đảng đoàn, ban cán sự đảng ở Trung ương và ban hành quy chế làm
việc mẫu của đảng đoàn, ban cán sự đảng trực thuộc Trung ương để thực hiện.
Thứ
hai, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Quy định số 105-QĐ/TW, ngày 19-12-2017,
“Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”, nhằm xác
định rõ nguyên tắc, đối tượng, nội dung công tác cán bộ và quy trình thực hiện
việc bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử theo quy trình 5 bước và quy định rõ
thẩm quyền, trách nhiệm của từng cấp; chỉ rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập
thể lãnh đạo và của mỗi thành viên trong tập thể lãnh đạo đó, nhất là thẩm
quyền của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và trách nhiệm của tập thể, cá
nhân khi để xảy ra sai phạm. Quy định số 205-QĐ/TW, ngày 23-9-2018, của Bộ
Chính trị, “Về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy
chức, chạy quyền”, quy định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, tổ
chức đảng và của mỗi thành viên trong tập thể đó; thẩm quyền, trách nhiệm của
tập thể lãnh đạo và các cá nhân trong việc tham mưu, đề xuất về công tác cán
bộ; quy định rõ những việc tập thể và cá nhân có thẩm quyền trong công tác cán
bộ phải làm và những việc không được làm; việc xử lý đối với tập thể và cá nhân
khi để xảy ra sai phạm, kể cả khi cán bộ đã nghỉ hưu hoặc chuyển công tác khác.
Quy định số 10-QĐi/TW, ngày 12-12-2018, của Bộ Chính trị, về “Chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực
cấp ủy tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương” đã quy định rõ chức năng, nhiệm
vụ, thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp
ủy cấp tỉnh và của mỗi thành viên trong tập thể đó. Đồng thời, chỉ rõ những
nhiệm vụ cụ thể thuộc thẩm quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường
trực cấp ủy cấp tỉnh trên các lĩnh vực: Phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, công tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và
hệ thống chính trị; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên
và của người đứng đầu cấp ủy; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử lý
trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm…
Thứ
ba, Ban Bí thư khóa XII đã ban hành Quy định số 202-QĐ/TW, ngày 2-8-2019, về
“Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp ủy, ban thường
vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện”, nhằm quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền, trách nhiệm của tập thể cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp
huyện và của mỗi thành viên trong tập thể đó; chỉ rõ những nhiệm vụ thuộc thẩm
quyền quyết định của cấp ủy, ban thường vụ, thường trực cấp ủy cấp huyện trên
các lĩnh vực: Phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh, công
tác đối ngoại, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị ở địa
phương; những việc thuộc thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi thành viên và của
người đứng đầu cấp ủy cấp huyện; các mối quan hệ công tác của cấp ủy và việc xử
lý trách nhiệm đối với tập thể và cá nhân cấp ủy viên khi để xảy ra sai phạm…
Đối với cấp cơ sở, Ban Bí thư các khóa gần đây đã ban hành các quy định về chức
năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của đảng bộ, chi bộ cơ sở trong các loại
hình tổ chức cơ sở đảng để thực hiện, trong đó có 2 quy định đối với tổ chức cơ
sở đảng xã, phường, thị trấn; 3 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng cơ quan; 3
quy định đối với tổ chức cơ sở đảng đơn vị sự nghiệp; 10 quy định đối với tổ
chức cơ sở đảng trong đơn vị quân đội; 6 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng
trong đơn vị công an; 7 quy định đối với tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình
doanh nghiệp.
Thứ
tư, ngoài các quy định về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác của các cấp
ủy, tổ chức đảng nêu trên, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư
khóa XI, khóa XII đã ban hành các quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ,
đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp, với
phương châm “cán bộ có chức vụ càng cao, thì càng phải gương mẫu” để thực hiện
và đem lại những kết quả tích cực(3).
Qua
thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế… của Trung ương nêu trên,
các cấp ủy, tổ chức đảng đã có chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; từng bước xác định
rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là trách nhiệm của
người đứng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, bảo đảm sự lãnh đạo
của tập thể và đề cao trách nhiệm cá nhân, hạn chế các sai phạm. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy, việc thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
trong thực hiện nhiệm vụ chính trị vẫn còn một số hạn chế, bất cập và chưa được
như mong muốn; vì thế, cần tiếp tục cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của
công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong thời kỳ phát triển mới của đất nước./.
St
Đăng nhận xét